Cụ nuôi Huống Đồng Thắng, hoặc có lẽ bây giờ, nên gọi ông là Hoàng Đồng Thắng.
Trước giờ, ông chưa từng nói rõ ràng với Giang Luyện rằng mình là một thợ cản thi, nhưng ông từng kể rất nhiều chuyện về cản thi, lời trong lời ngoài đều là ý đó, ông còn biết thủ pháp của những trường phái khác nhau, chẳng hạn như có môn phái lễ độ cung kính với thi thể, tôn là "hỉ thần"; có môn phái thì lại cục cằn thô bỉ, lúc cản thi quát một tiếng "Súc sinh, đi", coi người chết như súc vật mà xua chạy.
Chuyện muốn kể phải ngược dòng về gần tám mươi năm trước.
Trong lịch sử kháng chiến của Trung Quốc, Hồ Nam là một nơi rất thần kỳ: Sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Bắc, giặc tiến quân thần tốc, rất có xu thế chiếm lấy toàn bộ Trung Quốc, năm 1939, móng vuốt vươn tới Hồ Nam, vậy nhưng cho đến năm 1945 đầu hàng, người Nhật ở đây cứ đánh lại lui, lui lại đánh như kéo cưa, như rơi vào đầm lầy, không rút ra được, cũng không vào tiếp được.
Chiến tranh rất tàn khốc, Tương Tây có núi lớn ngăn trở nên tạm thời chưa bị lửa lan đến, trong khi đó, thành thị Tương Đông thì đã chịu đủ chà đạp, đến cả một tỉnh lị như Trường Sa cũng gần như bị một cây đuốc đốt thành đất hoang.
Trận đó, rất nhiều người mang cả nhà đi chạy nạn, hi vọng có thể chuyển vào hậu phương lớn Trùng Khánh – bởi trên quốc lộ cứ vài ba ngày lại có máy bay giặc đến oanh tạc, vô cùng nguy hiểm nên đường núi nổi danh là ổ thổ phỉ của Tương Tây lại thành lựa chọn hàng đầu.
Nhà họ Huống là một trong số những nhà chạy nạn như thế, một nhóm gái trai già trẻ gần hai mươi người, mang theo gia sản, lập thành đội thồ, cùng người dẫn đường và hộ tống băng qua Tuyết Phong Sơn, tiến vào Đại Vũ Lăng hung hiểm khó lường.
Hoàng Đồng Thắng có nghe nói một chút về thế cục bên ngoài nhưng không để trong lòng, ông chưa từng gặp giặc Nhật, chỉ nghĩ là chắc cũng không khác quân tóc dài Thái Bình Thiên Quốc (*) là bao – cướp tóc dài tới, người lớn tuổi sẽ vào núi tránh tóc dài, giặc Nhật tới, cùng lắm thì cũng vào núi né một phen.
(*) Thái Bình Thiên Quốc là một nhà nước tôn giáo và thần quyền Thiên chúa giáo được hình thành từ cuộc nổi dậy của nông dân do Hồng Tú Toàn cầm đầu vào giữa thế kỷ XIX, sự phát triển và suy vong của tổ chức này gắn liền với cuộc đấu tranh của người Hán chống lại sự cai trị của nhà Thanh và sự xâm lăng của các thế lực phương Tây, bị giai cấp thống trị nhà Thanh khinh miệt gọi là quân tóc dài (vì thời Thanh theo tục người Mãn Châu, cạo trọc nửa đầu).
Ông vẫn trước sau như một mà rung chuông chiêu hồn, đầu đội trời trăng sao, chân đạp đường đá xanh, đưa dẫn hỉ thần trong vùng núi Ngọ Lăng, đi nhiều rồi cũng đánh bạn được với vài người – ví dụ như lão Mã ở trại Bát Kháng, nhà họ Mã chuyên làm mặt nạ rước thần, lão đại Mã Cổ Vẹo trong nhà thích nhất là tìm Hoàng Đồng Thắng uống rượu tán dóc, đem hết những chuyện vụn vặt anh em ruột chị em dâu ba tầng trong ba tầng ngoài nhà mình ra làm đồ nhắm.
Lần đó cũng rất tình cờ, Hoàng Đồng Thắng và người nhà họ Huống cùng vào một quán trọ.
Bình thường, thợ cản thi hay ở quán trọ người chết, loại quán trọ này được mở rất nhiều ở Tương Tây, địa chỉ đều ở nơi hoang vu, ngưỡng cửa cao, cổng sơn đen, ban đêm không đóng cửa để tiện cho thợ cản thi ra vào, trong quán thường không có người, gần như tự phục vụ – lúc thợ cản thi rời đi chỉ cần đặt tiền thuê trong phòng là được.
Nhưng chỉ cần chủ quán không kiêng kỵ thì thỉnh thoảng cũng có thể ở trong quán trọ lớn, bởi thợ cản thi ở trọ thường ra tay tương đối hào phóng, hơn nữa người Tương Tây quan niệm rằng "hỉ thần" từng trọ lại quán nào sẽ mang lại vận may cho quán ấy, đó gọi là "hỉ thần đả tiệm", thế nên trong quán trọ thường chừa ra một hai gian phòng khuất nẻo không có cửa sổ, chuyên cung cấp cho những vị khách đặc biệt.
Hôm đó, Hoàng Đồng Thắng dẫn hỉ thần, tờ mờ sáng vào trọ, ngả đầu đi ngủ, đang ngủ say thì nghe thấy có người đùng đùng gõ cửa.
Hoàng Đồng Thắng toát mồ hôi lạnh, còn tưởng là xảy ra chuyện gì, đến khi mở cửa, trước mặt lại không ai.
Cúi đầu xuống thì trông thấy một cô bé hai, ba tuổi đầu đội mũ hổ trắng, đang nằm nhoài trên ngưỡng cửa chảy nước dãi cười khanh khách với ông, lăn bò dính cả một thân bụi bặm mà còn cười vui vẻ vậy, tựa như cảm thấy hưng phấn vì chòng ghẹo ông.
Cách ăn mặc này nhìn không giống dân bản xứ, Hoàng Đồng Thắng biết là con trẻ của khách trọ, cô bé thấy cửa mở, hăm hở muốn bò vào trong phòng, hay lắm, bên trong toàn là những thi thể đứng quay mặt vào tưởng, để cô bé trông thấy thì rất không ổn, Hoàng Đồng Thắng hết hồn, lật đật đóng cửa lại, bế cô bé ra ngoài tìm người nhà, may là vừa đi qua góc hành lang thì chạm mặt mẹ cô bé.
Đó là một người phụ nữ trẻ tuổi, chỉ tầm đôi mươi, mặc xường xám và áo quái tử dài tay, dung mạo vô cùng xinh xắn dịu dàng. Hoàng Đồng Thắng biết mình xấu, sợ dọa sợ nàng, không dám ngẩng đầu lên, lúc hạ mắt xuống, trông thấy giữa tà áo xẻ là bắp chân đi tất lụa trong, luống cuống đỏ rực từ cổ đến tận mang tai, nói cũng run giọng.
Người phụ nữ kia lại rất ôn hòa khách khí, vẫn cảm ơn ông, mỗi chữ phát âm ra đều dịu dàng êm ái, giọng điệu cực kỳ dễ nghe, khiến ông cảm thấy giọng địa phương miền núi của mình thật quá tục tằng.
Lúc tạm biết, ông nửa cúi đầu, vẫn lúng ta lúng túng không nói được một câu trọn vẹn, mãi đến khi người phụ nữ ấy đi xa rồi mới dám ngẩng đầu lên nhìn: Cô bé ôm cổ mẹ, vẫn đang vẫy vẫy bàn tay nhỏ tạm biệt ông, ánh mắt ông lại chỉ nhìn chằm chằm vào vòng eo mềm mại và bắp châm lộ ra dưới tà xường xám của người phụ nữ.
Thật đúng là tiên nữ, những cô gái trong trại núi, ca hát tuy hay, thêu hoa tuy khéo nhưng cũng chẳng bằng cô, huống hồ, những cô gái đó vẫn hay cười nhạo ông xấu xí, nhìn ông bằng nửa con mắt, nhưng người phụ nữ này thì lại dịu dàng như thế, còn bảo con gọi ông là "chú" nữa.
Hoàng Đồng Thắng ôm trái tim đập loạn về phòng, trong lòng nóng hổi, buổi chiều ông cũng chẳng ngủ yên giấc được, cứ trằn trọc nghĩ về người phụ nữ đó mãi.
Nếu là mấy năm trước thì ông đã chẳng dám nghĩ về phụ nữ, bởi sư phụ nói, thân đồng tử có ba cây đuốc nên mới có thể cản thi, nhưng thân thể đàn bà lại rất độc, có thể phá hỏng ngọn lửa thuần dương này, bắt ông phải tránh xa phụ nữ, nghĩ cũng không được nghĩ.
Nhưng theo số tuổi tăng dần, có một số việc dần cào ngứa lòng, hai năm nay, ông càng lúc càng nghĩ nhiều đến chuyện lên bờ kiếm vợ, ông tính toán số tiền mình dành dụm được: Đời này có thể lấy được người phụ nữ như vậy không?
Sờ sờ mặt mình, ông cảm thấy hẳn là không lấy được, ông không xứng.
Trừ phi, ông nghĩ, trừ phi người phụ nữ đó gặp phải tai nạn, tỷ như bị què chân, bị mù mắt, hoặc là hủy dung, lúc này mới tới lượt ông, mà ông tất nhiên sẽ không ghét bỏ nàng, sẽ coi nàng như bảo bối, nâng lên thật cao mà tôn thờ, mình nhai trấu nhường nàng ăn thịt, mình dù có cởi truồng cũng phải cho nàng được mặc thứ xiêm y may bằng loại vải thượng hạng nhất.
Nếu nàng gặp tai nạn thì thật tốt, cũng chỉ như vậy ông mới có thể xứng đôi, Hoàng Đồng Thắng nghĩ đến chỗ kỳ quái, bất chợt tỉnh táo lại, vả cho mình mấy cái bạt tai thật đau: Thật là vô liêm sỉ, sao có thể mong ngóng người ta gặp tai nạn như thế, đáng chết!
Cứ giày vò như vậy cho đến khi đêm xuống.
Đối với thợ cản thi, đây là giờ bắt đầu làm việc, ông thanh toán tiền trọ, phất lá cờ màu vàng ngả đỏ, dẫn mấy hỉ thần, lại lắc lư lên đường.
Đi được nửa đường thì trời đổ mưa, Hoàng Đồng Thắng quen đường, dẫn hỉ thần vào một cái động trú mưa, mình thì tựa vào cửa động, vung vẩy cây đuốc, chán chường đợi mưa tạnh.
Nội dung chương bạn đang xem bị thiếu. Vui lòng truy cập website https://truyenabc.com để xem nội dung đầy đủ. Cảm ơn bạn đọc!