Rốt cuộc túi mật núi là thứ gì, chất liệu, hình dạng, kích cỡ, công dụng ra sao, Mạnh Kình Tùng hoàn toàn không biết, y từng hỏi riêng Mạnh Thiên Tư, song Mạnh Thiên Tư cũng không trả lời được.
Chỉ biết là, kể từ khi có quỷ non thì có thứ này, rất cổ xưa, cũng rất quan trọng. Năm đó, bà cố tổ cảm thấy phải tìm một địa điểm bí ẩn thỏa đáng để cất giấu, bèn vào sâu trong Tương Tây, tìm được một vùng rừng đá không ai biết đến, treo túi mật núi vào xoang núi, rừng đá vô danh ấy vì thế nên cũng nằm trong bản đồ của quỷ non, được gọi là rừng đá treo túi mật.
Vị trí được chọn này thật sự là vô song. Tên gọi tắt của Hồ Nam là "Tương", Tương Tây, ý ngoài mặt chữ, chính là phía tây Hồ Nam.
Mở bản đồ Trung Quốc ra, Hồ Nam thực ra không hẻo lánh, nó nằm ở miền Trung Nam, trên có Hồ Bắc dưới có Lưỡng Quảng, phía tây tiếp giáp Du Kiềm (*), phía đông liền với Giang Tây, nhìn thế nào cũng là một ngã tư, bốn phương đều thông ra đường lớn – nhưng tình cờ là ở đây có một dãy núi tên là "Tuyết Phong Sơn" trải dài từ phía nam sang phía bắc tỉnh Hồ Nam, cắt tỉnh ra làm hai nửa, mà dãy núi này lại vừa vặn nằm trên đường ranh giới giữa bậc hai và bậc ba của Trung Quốc (**).
(*) Du là tên gọi tắt của thành phố Trùng Khánh, Kiềm là tên gọi khác của tỉnh Quế Châu.
(**) Địa thế của Trung Quốc tây cao đông thấp, lục địa có thể thể chia ra làm ba bậc thang độ cao: bậc thứ nhất là cao nguyên Thanh Tạng, cao hơn mặt biển từ bốn ngàn mét trở lên; bậc thứ hai chủ yếu là bồn địa, cao hơn mặt biển một ngàn đến hai ngàn mét; bậc thứ ba chủ yếu là đồng bằng, cao hơn mặt biển từ năm trăm mét trở xuống.
Phía đông dãy núi chẳng khác nào đồi núi Giang Nam mà phía tây dãy núi thì núi cao rừng hiểm, eo sông vừa dốc vừa chảy xiết, bất lợi cho việc giao lưu với bên ngoài, phong bế suốt mấy nghìn năm, văn hóa đầu đông chảy đến đây gặp núi lớn cản trở, khó có thể tây tiến, bởi vậy nên đến những năm ba mươi của thế kỷ hai mươi, khi Thẩm Tòng Văn miêu tả phong cảnh nơi này, còn gọi đây là "biên thành".
Vị trí rõ ràng là tim gan của đất nước, nhưng lại rơi vào cảnh được đãi ngộ như vùng biên cương, thế nên mới nói, bà cố tổ quả thật rất biết chọn địa điểm, am hiểu rất sâu đạo lý "đại ẩn ẩn vu thị (*)".
(*) Lấy từ tư tưởng triết học Đạo gia của Trung Quốc, nguyên văn là "tiểu ẩn ẩn vu dã, đại ẩn ẩn vu thị", nôm na hiểu là ẩn cư nơi thôn quê hoang dã, tức phải mượn nhờ hoàn cảnh, mới có thể sống tiêu sái được, thì chỉ là hạng xoàng mà người có bản lĩnh thật sự thì có thể ẩn cư ở ngay trong thành thị. Về sau cũng được dùng gần giống nghĩa "nơi nguy hiểm là nơi an toàn nhất".
Đáng ra nếu những năm ba mươi, "biên thành" cũng một người đắc đạo thì các khu vực xung quanh đã gà chó lên trời, cùng nhau vươn lên, nhưng không hề, bởi giao thông bất tiện, văn hóa bế tắc, vùng này vẫn vô danh bệ rạc như cũ, mãi đến đầu những năm tám mươi, rừng đá ráp Vũ Lăng Nguyên nổi tiếng ra cả nước ngoài của bây giờ mới được người ta phát hiện và mở rộng.
Mà rừng đá treo túi mật thì bởi địa thế hẻo lánh hơn, lối đi hiểm trở hơn, nên đến nay vẫn thâm tàng bất lộ.
Túi mật núi một khi treo lên là treo suốt mấy nghìn năm, ban đầu không ai có ý định động tới nó, nó giống như nền móng, quan trọng và thật sự tồn tại, nhưng xưa nay đều không được nhớ tới hay nhắc nhỏm gì, mãi đến mấy tháng trước, ma nước tới cửa Phường Quế Non.
…
Thái dương Mạnh Kình Tùng tê buốt: "Ý bác là…chuyện có liên quan tới túi mật núi?"
Y và Thiên Tư đều nghi ngờ như vậy, nhưng đó cũng chỉ là nghi ngờ, dù sao cũng không có chứng cớ xác thực.
Giọng Đường Ngọc Như sang sảng: "Không thì sao, mấy năm nay quỷ non chúng ta có gặp phải chuyện gì không? Bây giờ xảy ra chuyện, chuyện xảy ra ở Tương Tây, xuất hiện trên đường Thiên Tư lấy túi mật núi, anh nói xem chuyện có liên quan tới túi mật núi không? Tôi đã bảo rồi, có một vài thứ đừng có động vào, nó ở đó là có đạo lý của nó."
Mạnh Kình Tùng ngập ngừng nói, trước mặt các cô bác, hắn rụt rè đã thành thói quen: "Chúng ta cũng không nhất định phải động tới nó, chỉ là đi xem trước mà thôi, xem cũng không sao mà, dù sao năm đó cụ Đoàn…"
Những lo lắng của Đường Ngọc Như thực ra các cô bác khác cũng có, người có tuổi đều thích yên lặng, không thích chuyển động, không thích lăn lộn lung tung, sở dĩ cuối cùng vẫn đồng ý là bởi có một nguyên nhân quan trọng.
Tóc núi Đoàn Văn Hi từng đi vào rừng đá treo túi mật, cũng từng tận mắt nhìn thấy túi mật núi.
Nói đến Đoàn Văn Hi thì không thể không đề cập tới một giai đoạn cuộc đời lên xuống kịch tính, kết cục thổn thức, có thể nói là truyền kỳ của bà.
Bà là người đầu tiên sang Tây du học trong nhà quỷ non, cũng suýt là người có cuộc hôn nhân xuyên quốc gia đầu tiên: năm thứ hai du học, bà yêu một phi công người Anh, trong thư gửi về đã tỏ ý rất rõ ràng rằng hi vọng có thể kết hôn ngay sau khi lấy được học vị.
Năm đó, người trong nước cũng không có hảo cảm gì với giặc Tây mắt xanh râu đỏ, mấy vị đương gia Phường Quế Non khi ấy gần như sầu trọc đầu, nằm mơ cũng nghĩ phải làm thế nào để chia rẽ cặp uyên ương này, nhưng hướng đi của chuyện lại làm tất cả mọi người đều phải bất ngờ: Trong một lần thực tập phi hành, chàng trai người Anh kia gặp nạn, máy bay hỏng, người chết.
Trong cơn bi thống, Đoàn Văn Hi cắt đứt liên lạc, ngay cả bằng chứng nhận học vị cũng là bạn học lĩnh hộ, mà bà thì mất liên lạc suốt ba năm, ba năm ấy đã đi đâu, trong "Tập Quỷ Non" cũng không ghi chép rõ ràng, có điều theo lời Cao Kinh Hồng, hẳn là đi chu du thế giới, bởi khi còn rất nhỏ, me Đoàn từng kể chuyện lạ cho bà nghe, kể rằng từng gặp chủng người có máu màu xanh ở vùng núi cao tại Nam Mĩ xa xôi, còn nhắc tới loài uyên ương đầu đen thân trắng sống trong rừng rậm nguyên thủy ở Philippines.
Ba năm sau, Đoàn Văn Hi trở lại Phường Quế Trai.
Có lẽ là chịu sự ảnh hưởng của ba năm du lịch, bà chẳng ở yên được, thường cứ cách một khoảng thời gian là lại thả mình vào rừng thẳm núi hoang, không phải nói ngoa nhưng mỗi một tấm bản đồ núi của quỷ non, bà đều căn cứ theo mà đi, thậm chí còn đi được sâu hơn, cập nhật và chú giải thêm trên rất nhiều bản đồ núi: theo cách nói của bà, một là không ít bản đồ núi được vẽ cách đây đã hơn nghìn năm, lâu như vậy, hình thế của núi trải qua các thảm họa địa chất, gió nước xói mòn đã bị tổn hại, rất khác so với khi xưa; hai là người thời xưa thiếu kiến thức, sét đánh chớp lòa cũng phải gán lên thân quỷ thần, khó tránh khỏi phóng đại một số hiện tượng, quả thật cũng phải tận tai tận mắt xem xét lại.
Với tinh thần ấy, đương nhiên cũng sẽ không bỏ qua rừng đá treo túi mật.
Bà viết trong nhật ký rằng hành trình rừng đá treo túi mật có hơi nguy nan, nhưng có con đường và sự chỉ điểm của tiền nhân, cũng coi như là thuận lợi, chỉ là bài kệ quá khiên cưỡng xằng bậy, ví dụ như có một thác nước, vì nguyên nhân địa thế, không chảy thẳng xuống mà lại quanh co, vòng đi vòng lại, trong bài kệ bèn gọi nó là "lưỡi đi loạn", khiến người khác cười muốn rụng răng.
Bởi vậy nên, đến Đoàn Văn Hi cũng từng qua rừng đá treo túi mật, sờ tới túi mật núi trong khoảng cách gần thì Mạnh Thiên Tư còn cao hơn bà một cấp nếu còn không dám vào hoặc không vào được, chẳng phải là quá không logic sao?
…
Đường Ngọc Như ngắt lời Mạnh Kình Tùng: "Năm đó năm đó, năm đó là khi nào? Me Đoàn vào rừng đá treo túi mật năm một chín ba mấy, cách bây giờ đã sắp chín mươi năm, tôi hỏi anh, chín mươi năm trước có anh không?"
Nội dung chương bạn đang xem bị thiếu. Vui lòng truy cập website https://truyenabc.com để xem nội dung đầy đủ. Cảm ơn bạn đọc!