Chương 21: (Vô Đề)

Bản đồ núi là do nhiều thế hệ quỷ non dò núi vẽ ra, bao gồm dáng núi, thế núi và những nơi cổ quái trên núi, ghi chú vô cùng tường tận, bởi "bản đồ núi không rời núi" nên đều được cất ở các nơi, cũng không tập hợp lại để ở Phường Quế Non.

Hai ngày trước, Mạnh Kình Tùng cũng đã điều động mang bản đồ núi Tương Tây tới Vân Mộng Phong, cất riêng trong một phòng trọ, nghe cô nói muốn xem, vội phân phó Liễu Quan Quốc dẫn người vào phòng treo lên.

Tân Từ ở chếch đối diện Mạnh Thiên Tư, nghe thấy động tĩnh cũng ló đầu ra hóng, chỉ thấy hai người Liễu Quan Quốc và Khưu Đống đang chuyển từng chuyến những trục cuốn từ căn phòng trọ cuối cùng tới phòng Mạnh Thiên Tư.

Ghé sát lại nhìn mới nhận ra đó không phải trục cuốn mà là những ống cuộn dùng để cất giữ tranh ảnh, cũng không biết làm bằng loại mây tre cỏ cây gì mà mùi rất kì lạ, rất có vị thuốc bắc, khá chắc là để phòng mọt đuổi trùng, trên mỗi ống đều dán ký hiệu, như là "kinh ba vĩ hai", "kinh sáu vĩ tám" vân vân.

Chờ đến lúc mở ống cuộn, rút lõi ra, đều là những mảnh da thuộc ngả màu da bò già, hai mặt trên dưới bôi một lớp dầu không rõ là dầu gì, khiến mặt giấy nhìn bóng loáng, bên trên chằng chịt những nét bút cực nhỏ.

Liễu Quan Quốc dẫn theo Khưu Đống chuyển bàn dời ghế, dành ra một mặt tường lớn để trống, sau đó dùng đinh dẻo ráp từng mảnh da thuộc lên theo thứ tự. Lúc này Tân Từ mới hiểu ra ký hiệu trên ống cuộc là hai điểm định vị, kinh là trục tung, vĩ là trục hoành, bức hình này rất lớn, đến đến khi ráp xong thì cả một mặt tường gần như đều bị che kín cả rồi – trên đó là dáng núi thế sông, đường đi thôn trại, nhìn rất sống động, mồn một ngay trước mắt.

Có điều cách vẽ bản đồ kiểu cổ của Trung Quốc cũng giống như sa bàn tác chiến vậy, xem mà hệt như xem "vẽ", chẳng hạn như có một vài đỉnh núi còn điểm thêm đường nét cây tùng. Tân Từ sáp lại gần Mạnh Thiên Tư, hạ giọng: "Thực ra tội gì phải xem cái này, khó chết được, cô mở bản đồ Google lên đi, đều là ảnh chụp vệ tinh cả, cần dùng là xem được ngay."

Không ngờ tai Liễu Quan Quốc lại đặc biệt thính: "Tôi biết cái cậu nói, bản đồ Google gì chứ, chỉ là vẽ da vẽ lông mà thôi, bản đồ núi của chúng tôi mới là vẽ xương."

Tân Từ cười cười khách khí, trong lòng thầm nguýt: Coi thường hắn xem không hiểu à, cái này liếc cái là hiểu, xương xẩu quái gì.

***

Sau khi chỉnh lý xong xuôi, Mạnh Thiên Tư đuổi những người khác đi, chỉ ra hiệu cho mình Mạnh Kình Tùng ở lại.

Mạnh Kình Tùng lòng sáng như gương, không đợi cô phân phó đã mở giành quỷ non ra, lấy một người đồng cao chừng một gang tay ra. Gương mặt người đồng này dữ tợn xấu xí, có thể so với dã quỷ, hai tay đang cáu kỉnh gãi đầu – Mạnh Kình Tùng nắm lấy búi tóc trên đỉnh đầu nó, vặn khẽ một vòng, xoay nửa cái đầu xuống.

Thì ra người đồng này rỗng ruột, tiết diện dẹt nhỏ, nhìn khá giống mắt người, bên trong chứa đầy dầu sáp màu đen đã đông lại, ở giữa tòi ra đầu mút bấc đèn màu đỏ tươi, là một giá nến được chế tác tinh xảo, giá nến này có kèm theo bật lửa, chỉ cần nắm một chân người đồng kéo mạnh ra ngoài rồi thổi nhẹ một hơi, lửa sẽ bùng lên, cùng nguyên lý với quẹt diêm.

Làm xong, Mạnh Kình Tùng lui xuống cạnh chân tường, vươn tay bấm công tắc tắt đèn.

Trong phòng tối om, chỉ nghe thấy tiếng phát ra khi Mạnh Thiên Tư di chuyển, lát sau, chợt nghe "xoẹt" một tiếng, bật lửa lóe lên ánh lửa màu cam, phút chốc, ngọn nến được châm lên.

Ánh nến này khá kỳ dị huyền ảo, ở bấc nến có màu bạc trắng, ra ngoài dần chuyển màu đỏ tía rồi tím lạnh, dầu sáp xung quanh óng ánh, trong bóng tối nhìn rất giống một con mắt đột ngột mở bừng, đây là "mắt lửa nhận hình" chuyên dùng để xem bản đồ núi.

Mạnh Thiên Tư giơ cao mắt lửa lên để sát vào bản đồ núi, kể cũng lạ, phàm chỗ nào được ánh nến chiếu tới, trên bề mặt sẽ hiện lên những đường nét tỏa ra như tơ máu, hoặc là chú giải, hoặc là phác họa, đây mới là thành quả chân chính của dò núi, trong bản đồ có bản đồ, trong họa có họa.

Cô gọi Mạnh Kình Tùng: "Anh qua đây xem này."

Mạnh Kình Tùng lại gần thì trông thấy ngọn nến mắt lửa đặt nghiêng, trên bề mặt bò ra một vách rìa ngoằn ngoèo, đó là vách rìa Miêu Cương, còn gọi là Nam Trường Thành – thời Minh, dân Miêu không phục sự quản chế của triều đình, để ngăn chặn xâm phạm biên giới, quân đóng giữ đã lục tục xây một vách rìa dài gần bốn trăm dặm, tách Miêu Sống và Miêu Chín (*), cho rằng phía bên ngoài tường là "dân vùng thiếu văn minh", còn nghiêm lệnh "Miêu không xuất cảnh, Hán không nhập động".

(*) Người Hán xưa chia người Miêu ra làm hai loại, Miêu Sống () chỉ tộc Miêu không chịu ảnh hưởng của văn hóa người Hán còn Miêu Chín () thì ngược lại, khu vực sinh sống của Miêu Sống đều là địa khu chịu ràng buộc, không được chân chính vẽ vào bản đồ.

Mạnh Kình Tùng nói: "Còn có một đường vách rìa nhỏ phải không?"

Mạnh Thiên Tư gật đầu: "Đúng vậy."

Cô dời mắt lửa đi, trên bề mặt quả nhiên lại hiện ra một đường đứt quãng.

Người đời đa số đều biết đến vách rìa Miêu Cương, tức vách rìa lớn, nhưng vách rìa nhỏ lại hiếm có ai biết.

Thì ra, quân trú đông khi trước sợ Miêu Sống làm loạn, nhưng người Miêu cũng sợ quân trú đóng xâm phạm, dù họ không có tài lực xây Trường Thành nhưng Miêu Sống có rất nhiều thầy mo, giỏi nuôi cổ vẽ bùa, hiểu đạo lý biến hóa sinh khắc – họ dựa theo địa thế, dáng núi, nơi hiểm yếu mà thiết lập rất nhiều cơ quan bí hiểm, những bẫy rập lấy mạng, đường đi rải rác, không phải vách rìa mà vượt qua vách rìa, thường gọi là vách rìa nhỏ.

Có điều quân biên phòng thực chất rất dè chừng Miêu Sống, tránh còn chẳng kịp, sao có thể nổi dậy chinh phục nơi sơn cùng núi hiểm mù mịt chướng khí vô vàn trùng độc này, lâu dần, vách rìa nhỏ cũng từ từ chìm vào quên lãng.

Mắt lửa chuyển khỏi hai vách rìa lớn nhỏ, tiếp tục đi vào trong, dừng lại giữa một mảng chọc trời những cột rừng đá rộng lớn.

Đó là hình dáng của rừng đá ráp thạch anh điển hình của Trương Gia Giới: những cột đá cao lớn với những góc cạnh thẳng sắc như được rìu đục tạc thành phân bố rải rác trong hẻm núi khổng lồ, rừng thẳm chằng chịt dây mây, xanh um tươi tốt – nghe nói trăm triệu năm trước, nơi này là một vùng biển cổ, trải qua mấy phen biến động vỏ Trái Đất, bị phong hóa, thủy thực, bấy giờ mới hình thành nên kiểu địa mạo hiếm thấy này.

Khuôn mẫu núi nổi trong bộ phim bom tấn "Avatar" của đạo diễn người Mĩ James Cameron chính là được lấy từ nơi này.

Nói một cách công bằng thì Đại Vũ Lăng Nguyên được xưng là "non lạ ba ngàn, nước hiếm tám trăm", chẳng hề kém cạnh Hoàng Sơn chút nào, không thể lọt vào mắt Từ Hà Khách, rớt khỏi cuộc tranh đấu xếp hạng danh sơn Trung Hoa một cách đáng tiếc, nhưng thật sự cũng chẳng phải tại nó – Từ Hà Khách chưa từng tới Trương Gia Giới, ghi chép về những nơi ông ta đến quá nửa đều là du ký, nhưng phần đề cập đến đất Tương lại ghi là "Nhật ký gặp cướp ở sông Tương", khi đó đỗ thuyền qua đêm, gặp phải giặc cướp trắng trợn vung đao chém loạn, thân bất do kỷ nhảy xuống nước chạy trốn, khốn đốn đến mức chỉ còn lại một chiếc áo lót dài lửng chỉ tới ngang eo, phải mượn người lái đò manh vải rách, "uống gió cắt xương, cát đá toác chân" giữa trời đông buốt giá, đoán chừng cũng chẳng còn hứng thú mà đi phẩm non luận núi nữa.

Nội dung chương bạn đang xem bị thiếu. Vui lòng truy cập website https://truyenabc.com để xem nội dung đầy đủ. Cảm ơn bạn đọc!