Vanessa đứng trước chiếc gương trong phòng trọ. Nó đã mờ xước, những cặn bẩn màu trắng ngà bám chặt trên gương, nom như vân một con cá thủy tinh. Cô chải mái tóc rối đen của mình, vài sợi rơi xuống vai và trên thành chiếc bồn rửa. Sự mệt mỏi ngày hôm qua đọng lại trên bọng mắt cô một dải màu tím nhạt, cùng với một cơn đau ở gáy như khi người ta ngủ sai tư thế và sáng hôm sau thấy người mình ê ẩm. Cô mở vòi, vục nước lên tay và rửa mặt như thể làm thế sẽ rửa được quầng mắt thâm tím đi.
Vanessa đứng thẳng dậy, nhìn những giọt nước chảy trên tay mình. Lạc giữa những dòng suy nghĩ rối bời, cô nhớ lại và đặt bản thân vào người đã đứng giữa hành lang hôm qua, với cơ thể đầy sức mạnh và lật ngược tình thế chỉ bằng vài cái phẩy tay. Đó là cô, nhưng Vanessa vẫn không dám tin. Samuel dường như chẳng mấy bận tâm về điều đó, hoặc ít nhất đây là mối lo ngại thứ yếu của ông trước vụ kiện ngày mai. Cô nghĩ một phần vì nó chẳng liên quan gì đến dòng máu ma cà rồng của cô, và vì cô đã cứu cánh tất cả một phen. Nhưng có điều gì đó cứ đè nặng lên tâm trí Vanessa, cô như đang đứng trước một cánh cửa bị khóa và không có chìa để mở. Nếu như mình có thể phá tan cánh cửa đó ra, cô nghĩ, thay vì chỉ nhìn qua vết nứt đó.
Vanessa lùi lại một bước, cô đưa hai tay mình lên và nhìn chằm chằm vào nó. Hít một hơi thật dài, cô khum lòng bàn tay lại với nhau như đang giữ ở giữa một vật vô hình. Trong lòng cô đầy nỗi hoài nghi, kể cả khi làn da nơi lòng bàn tay đã râm ran tê và phủ đầy lên cảm giác mát lạnh. Cô như đang nắm những làn gió trong tay mình, cảm nhận chuyển động và năng lượng mạnh mẽ của nó. Sự phấn khích về việc có một thức sức mạnh như thế tồn tại trong mình lấn át mọi nỗi nghi hoặc của cô về nguồn gốc của nó.
Cô nhớ về lúc mình hạ Shawn, nhận ra rằng điều đó dễ dàng tới mức nào và cô hoàn toàn có thể làm lại một lần nữa. Lần này, cô sẽ không cho gã cơ hội thoát thân. Cô sẽ bắt hắn phải trả giá cho cái chết của Esme, và cả gã đàn ông đi cùng hắn nữa.
Những luồng năng lượng chảy trong tay Vanessa biến mất đột ngột như cách người ta tắt một bóng đèn khi ra khỏi phòng. Cô nhớ đến gã đàn ông đó, và mọi sự tập trung của cô trôi tuột về phía hắn. Cô biết rằng đã có chuyện gì đó xảy ra với cô vào lúc cô bất tỉnh. Nhưng mỗi lần cố nhớ lại, đầu Vanessa lại váng vất một cơn đau. Tâm trí của cô như những mảnh kính vỡ không thể ghép lại. Đôi khi những hình ảnh hiện lên rồi biến mất, cô chẳng thể phân biệt được đâu là thật và đâu là tưởng tượng.
Justin không tới trường vào thứ ba. Thật ra vào ngày hôm nay, không có ai có ý định ra khỏi phòng trọ ngoài Samuel. Ông tới gặp một vài thợ săn ở Brooklyn, để lại cô cùng Justin chơi một trò boardgame cũ ai đó để quên trong tủ quần áo cùng những chiếc khăn tắm nhàu. Cả hai ăn trưa bằng món Trung Hoa đóng hộp được chuyển tới tận nhà, rồi giết khoảng thời gian đầy căng thẳng còn lại của ngày bằng cách ngủ, đọc sách và xem TV. Điều cô thậm ghét là mỗi lần di chuyển trong căn phòng nhà nghỉ, cô đều phải đi qua chiếc đồng hồ quả lắc bằng gỗ treo trên tường và âm thanh khó chịu của nó. Không ai nói ra, nhưng tất cả đều chịu đựng chung một nỗi căng thẳng khi ngày mai đang tới gần, và hầu như những gì họ có trong tay đều mơ hồ, không chắc chắn.
Cuối ngày, khi Samuel đã ngủ say, cô sang phòng đối diện cùng với vài lon bia, không thể ngủ được vì nỗi cồn cào sợ hãi và tiếng của chiếc đồng hồ. Ở phòng Justin, đồng hồ đã hỏng, chỉ có cái TV cũ vẫn còn bật. Âm thanh ấy và cảm giác sau khi nốc những lon bia lạnh làm Vanessa chìm vào giấc ngủ.
Sáng sớm hôm sau, cô tìm thấy mình đang ngủ trên ghế sofa, với một chiếc chăn mỏng đắp lên mình một cách vụng về. Justin thì đang ngủ say trên giường của cậu ta, TV vẫn bật và vỏ những lon bia lăn lóc trên bàn và dưới đất. Khi quay trở về phòng, Vanessa vẫn không hiểu tại sao mình lại có thể nghĩ đến việc qua căn phòng đó cùng với bia, lẫn cảm giác tin tưởng tới gần như tuyệt đối một con người mà cô còn chẳng biết rõ.Chín giờ kém mười lăm phút sáng, chiếc Shelby đỗ lại trong một bãi đỗ xe ngoài trời, cạnh một nhà thờ tại Arverne. Vanessa bước ra ngoài trong cái rét căm căm của một ngày đầy tuyết, cô giấu gương mặt mình dưới một chiếc khăn len dày, ngước nhìn đỉnh tháp nhà thờ. Nó chỉ là một nhà thờ địa phương, có lối kiến trúc hiện đại nhưng buồn chán. Bên ngoài nhà thờ sơn một lớp sơn trắng đã ngả màu, đỉnh tháp là một cây thánh giá.
Khi Samuel nói cả ba sẽ tới một nhà thờ, cô đã tưởng tượng nhà thờ của Hội Mắt Thánh sẽ lớn hơn và đẹp đẽ hơn thế này. Justin và Samuel rời khỏi xe sau cô, và cả ba bước về phía cửa nhà thờ.
"Liệu chúng ta có đến nhầm địa chỉ không?" Vanessa hỏi, cau mày khi nhìn thấy một người đàn ông mặc đồ lao động đang quét tuyết bên ngoài nhà thờ. Cô không thấy có chiếc xe nào đỗ gần đây ngoài xe của mình, và ngoài người lao công dọn tuyết ra, cũng chẳng còn ai khác cả.
Samuel lắc đầu, ông mở khóa chiếc cặp saddleback bằng da cầm và lôi ra một vật nom như danh thiếp."Không, chắc chắn đấy. Emerson đã gửi địa chỉ cho bố hôm qua cùng trát của tòa."
"Ông ta đâu rồi?" Vanessa hỏi. "Con tưởng ông ta sẽ đi cùng chúng ta chứ?"
"Chắc ông ấy tới muộn." Sam đáp, dù có vẻ không chắc chắn lắm.
"Tuyệt." Cô đáp bằng giọng căng thẳng. "Người duy nhất có thể trông đợi vào là một ông già từ viện dưỡng lão."
"Ông có ý giúp chúng ta mà."
"Vì Hội Mắt Thánh bảo ông ta thế." Cô đáp. "Họ còn chẳng cho chúng ta một luật sư tử tế, hay ít nhất là nhớ được tên thân chủ mình nữa."
Cánh cửa nhà thờ đóng chặt nhưng không khóa. Samuel vặn nắm đấm cửa và một cách cứng đầu, nó cọt kẹt mở ra. Bên kia cửa là tiền sảnh nhà thờ, không gian vắng lặng như thể ngoài cả ba người họ ra, chẳng còn ai khác ở đây cả. Một chiếc bàn gỗ đặt bên trái với hòm quyên góp, ngay cạnh buồng xưng tội. Vanessa nhìn thấy Justin nhét một tờ 5 đô vào trong rồi mới đi tiếp.
Cả ba bắt gặp một giáo sĩ bên trong phòng nguyện nhà thờ. Ông ta trạc tuổi Sam, đang trò chuyện cùng một người phụ nữ ở hàng ghế dành cho giáo dân. Vanessa nhíu mày nhìn và nhận ra bà ta đang khóc, càng lúc cô càng thêm nghi ngờ liệu mình có tới đúng nơi, hay Ermeson lẩm cẩm đã viết sai địa chỉ.
"Xin lỗi." Sam chần chừ cất giọng.
Vị giáo sĩ ngoái lại nhìn họ và rồi đứng dậy:
"Tôi có thể giúp gì?"
Ông đưa tấm thẻ kỳ lạ cho vị giáo sĩ. Biểu tượng của Hội Mắt Thánh in đậm bằng mực vàng ở mặt trước, người ngoài nhìn vào hẳn chỉ nghĩ là một tấm danh thiếp với họa tiết thừa thãi. Vị giáo sĩ ngẩng nhìn Samuel và mỉm cười. Ông ta quay lại nhìn người phụ nữ nọ với ánh mắt trìu mến:
"Tôi sẽ nói chuyện với bà vào lúc khác nhé, Carmel."
Vanessa khẽ nhíu mày khi đi qua bà ta, nhìn thấy trên tay người phụ nữ tấm ảnh một đứa trẻ lồng trong khung kính viền đen. Hẳn đã có chuyện gì đó xảy ra với con bà ta, cô ngoảnh đầu, nghĩ bâng quơ.
Vị giáo sĩ dẫn cả ba lên tầng hai của nhà thờ, vốn chỉ là một căn gác mái. Nối tiếp đoạn cầu thang hẹp là một hành lang tối, hai bên là tường ốp gỗ và những thanh xà ngang thì dựng trên đầu. Có vẻ người ta vẫn quét dọn gác mái sạch sẽ, vì ở đây chẳng có chút bụi hay mạng nhện nào.
"Tôi là Briain. Chắc hẳn anh là Sam Wilder." Người đàn ông cất giọng vui vẻ, kéo một chùm chìa khóa nặng nề ra khỏi túi áo. "Dạo này có nhiều người nhắc đến anh và vụ kiện lắm. Có rất ít vụ kiện ngược lại thợ săn."
"Chắc tôi phải may mắn lắm." Samuel đáp với chút mỉa mai.
"Tôi hiểu mà." Cha Briain dừng lại trước một cánh cửa gỗ, lách cách mở khóa. Vanessa nhận ra ở đuôi chìa cũng có biểu tượng của Hội Mắt Thánh, khác hẳn với những chiếc còn lại. Cô ngẩng lên nhìn cánh cửa, trông nó quá đỗi tầm thường so với một cánh cửa ma thuật. "Chúng ta làm tốt việc của mình, chẳng ai quan tâm. Nhưng khi phạm một sai lầm thì ngay lập tức họ nổi điên."
Một tiếng "cách" vang lên từ ổ khóa, và ông ta đẩy cửa sang một bên.
"Cha nghĩ chúng tôi phạm sai lầm?" Vanessa cất giọng đắng ngắt.
Nội dung chương bạn đang xem bị thiếu. Vui lòng truy cập website https://truyenabc.com để xem nội dung đầy đủ. Cảm ơn bạn đọc!