Cùng lúc đó cậu cả ở cách nhà họ Hồ chừng mười dặm, cậu được bà cả giao cho nhiệm vụ tới chặn đoàn tiếp tế mà triều đình nhà Lý sai tới cứu viện dân chúng. Nhà Lý càng mất lòng dân, bà cả càng có thể danh chính ngôn thuận soán ngôi vua.
Cậu cả đứng trên một cành cây to, nhìn đoàn người do vị quan tam phẩm dẫn đầu. Người ngựa đã thấm mệt sau quãng đường dài từ kinh thành tới đây. Vị quan võ này ở trong triều giữ chức Tổng Binh Sứ, đi cùng có thị vệ và một đội quân áp tải đi cùng.
Thị vệ thúc ngựa chạy lên đầu nói với quan :
– Bẩm Tổng Binh Sứ, đã sắp tới giờ Tuất (19h – 21h hiện nay). Vùng này lũ lụt lớn, đường xá khó đi, lại lắm bùn sình. Cứ đi tiếp vào ban đêm sợ không hay, ngài xem binh sĩ đã thấm mệt. Chúng ta đi từ đêm qua tới giờ vẫn chưa nghỉ ngơi.
Tổng Binh sứ nhìn lại sau lưng, binh lính chống dựa vào giáo, người gục lên gục xuống vì mệt mỏi, buồn ngủ. Chân họ đã bị bùn đất, đá sắc bén làm bật cả máu. Ông ấy cũng cảm thấy mệt, bảo thị vệ mình:
– Bổn quan cũng thấy ưng lời.
Truyền lệnh tìm nơi cao hạ trại qua đêm.
– Dạ rõ.
Thị vệ chạy từ trên xuống, vừa đi vừa hô to lệnh của Tổng binh sứ. Binh sĩ nghe sắp được nghỉ ngơi thì phấn chấn lên hẳn. Họ đi hết con đường sình lồi, vừa hay phía trước là một ngôi đền cũ bị bỏ hoang.
Đền này nằm ở nơi cao mà vẫn bị nước lũ càn quét, cổng đền xô lệch, bùn đất bám đầy trông hoang phế.
Khi nước rút thì toàn bộ cửa gỗ, cây cối đã hư hại quá nặng. Tổng Binh sứ đi tới trước đền, thấy ở cổng có ba chữ: " Phúc Đẳng Thần".
Tổng binh sứ dẫn theo quân lính làm lễ vái trước đền:
– Phụng thiên thừa vận, bổn quan tam phẩm Tổng Binh Sứ dưới hoàng triều nhận lệnh hoàng đế tiếp tế cho dân chúng vùng lũ. Đường đi gian nan, trời lại tối, người ngựa cần nơi chốn nghỉ. Xin phép Phúc Đẳng Thần cho chúng tôi tá túc một đêm.
Mai này công cuộc cứu trợ hoàn thàn , sẽ ghé lại đây tu sửa đền cho Ngài.
Tiếng gió lạnh thổi lên vù vù, Tổng Binh Sứ bảo thị vệ của mình:
– Bảo mọi người chia nhau ra gác, nhóm lửa to lên, lấy lương theo mà phát . Nếu lấy nước gần đây phải nấu chín lên dùng, không uống sống. Đặc biệt, ở trong đền này có phát hiện xác c.h.ế. t thì chôn cất. Tuyệt đối không có tơ màng một vật, lấy cắp xử tội nghiêm cho ta.
Rõ chưa ?
– Dạ Rõ
Binh lính đi lấy củi khô đốt lên sửi ấm và bắt từng cái nồi lên nấu cơm. Tổng binh sứ đi vào đền thờ, vừa may sau điện có một căn phòng bỏ hoang. Vừa vặn đủ cho một người to khỏe như ông ngủ qua đêm.
Tổng Binh Sứ sai binh lính dọn dẹp lại phòng cho mình, ông ấy khi thấy quân lính lấy rượu ra uống thì quát lớn :
– Uống ít thôi.
Bọn đạo tắc, phường cướp nhân lúc các người say mèm xông vào đánh thì đỡ làm sao. Ta chỉ cho phép uống giữ ấm, giám quân đâu.
Thấy ai uống say lập tức xử chém, không cần thưa lên!!
– Dạ.
Nghe lệnh nghiêm khắc của tổng binh sứ làm binh sĩ sợ xanh mặt, họ hì hục uống tém lại số rượu, còn lại xoa bóp ở tay chân, vùng cổ n.g.ự. c giữ ấm.
Sau bữa cơm tối, tổng binh sứ đóng lại cửa sổ xiêu vẹo, lấy cây chốt lại cửa bên trong và trải 1 tấm vải lên cái giường đá để ngủ. Khi trăng lên cao, bên ngoài vang lên tiếng ngáy o o của binh lính. Từng tốp lính đứng canh gác, nghiêm túc cảnh giác giặc cướp tấn công.
Lúc này, một bóng hình lướt qua từng ngọn tre gần đó. Binh lính đang gác nghe thấy tiếng sột soạt cách mình chỉ vài bước chân thì lên tiếng :
– Ai ở đó?
Ám hiệu canh gác là gì? Nói mau!
Ở trong quân thường vào các buổi canh gác, giữa gác binh với nhau sẽ có một loại ám hiệu, mật khẩu riêng. Khi phát hiện kẻ tình nghi thì hỏi ngay. Binh lính gác nhìn thấy một bóng người đang lụi cụi dưới gốc tre thì tiến lại gần, tay lăm lăm ngọn giáo.
Nội dung chương bạn đang xem bị thiếu. Vui lòng truy cập website https://truyenabc.com để xem nội dung đầy đủ. Cảm ơn bạn đọc!