Chương 33: Điền Cương

Các cụ dạy cấm có sai, hữu tâm trồng hoa hoa chẳng nở, vô tâm cắm liễu liễu xanh um. Năm sáu năm trời chú tâm vào phép đổ gang chưa thành công mà đổ thép bắt đầu sau lại thành công trước.

Nó biết, thời trung học người ta có giới thiệu mấy loại lò nấu thép, trong đó có một loại gọi là lò Bét

-xmơ thì phải.

Nhưng cái vấn đề ở đây là nó không phải học sinh khoa học tự nhiên.

Ham mê của nó về lịch sử chỉ dừng ở mức biết đến các công nghệ có ảnh hưởng đến c·hiến t·ranh. Mà biết ở đây cũng chỉ là sơ qua về trang bị, kết cấu một số loại thuyền bè tiêu biểu của thời đại hàng hải, thành phần của một số loại thuốc súng, cùng lắm là biết thép là hợp kim của sắt và carbon, thép cho thêm mangan, coban, niken v.v. vào thì tăng độ bền các kiểu.

Chứ cụ thể làm thế nào để thiết kế chi tiết một con thuyền đi biển, làm thế nào để sản xuất thuốc súng có sức đẩy tốt nhất, làm thế nào để dung hợp carbon cùng các kim loại khác với sắt tạo thành thép thì nó chịu c·hết.

Thành ra, khi bàn giao các hạng mục nó chỉ mô tả khái niệm cơ bản mà thôi. Hạng mục đổ thép này cũng vậy, tuy nó vẫn hay sao sát động viên, vạch đường dẫn lối nhưng kiến thức của nó thực tế cũng không thể giúp gì nhiều.

Chỉ trông đợi vào đám thợ đã có phương hướng có thể tự mày mò ra mà thôi.

Tác động trực tiếp của nó lên đề án chẳng qua là giới thiệu lò cao, cái này dùng chung cả đề án đổ thép cùng luyện gang. Mà cũng không hẳn là nó phát minh ra lò cao, phải gọi là cải tiến phương thức vận hành của lò cao mới đúng.

Đây có lẽ là thứ hữu ích duy nhất còn tồn tại trong đầu một thằng học sinh khối C như nó vậy.

Lò cao không phải phát kiến gì mới lạ, người Trung Quốc đã sử dụng loại lò này muộn nhất từ thế kỷ thứ nhất sau công nguyên.

Tuy nhiên cho đến giữa thời Minh, việc đưa không khí vào lò cao vẫn được thực hiện bằng sức người hoặc sức ngựa, vậy nên công sức bỏ ra rất nhiều nhưng cũng chỉ đủ để vận hành những lò cao cao từ nửa trượng tới một trượng (2-4m).

Lò cao nhỏ thì tốn sức người mà sản lượng cũng manh mún, đây là hiển nhiên. Cải tiến lớn nhất mà nó mang đến là hệ thống thổi khí vào lò bằng sức nước, thôi thì méo mó có hơn không, nhờ vào phát kiến vĩ đại của nó mà công xưởng Vĩnh Xương có những cái lò cao hai trượng rưỡi đến ba trượng (10-12m).

Bởi vậy mà năng suất mỗi lò gang, sắt của Vĩnh Xương cực kỳ điên rồ. Lò nung của các nhà khác cần mười hai thợ cật lực sáu canh giờ (12 tiếng đồng hồ) vất vả mỗi mẻ luyện được trên dưới ba mươi cân sắt, luyện xong còn phải để thợ nghỉ ngơi hai đến ba ngày.

Trong khi đó, nhờ vận hành các lò cao lớn hơn, ở công xưởng Vĩnh Xương cũng với mười hai thợ, thời gian nấu chỉ bằng một nửa mà mỗi mẻ cho ra lò trên dưới ba trăm năm mươi cân sắt.

Hơn nữa, do thời gian đốt lò ngắn, chỉ hai đến ba canh giờ nên mỗi ngày thợ đều có thể đốt một lò chứ chẳng cần nghỉ ngơi mấy ngày lại sức như thợ mấy nhà kia.

Vậy nên, chỉ làm việc sáu ngày một tuần, nhưng một trăm hai mươi thợ vận hành mười lò cao công xưởng Vĩnh Xương đã có thể đảm bảo sản lượng trên dưới tám vạn năm ngàn cân sắt mỗi tháng.

"Quái đản thật, bốn năm đôn đốc sát sao chẳng có thành quả gì, vừa bỏ bẵng đi có hơn một năm đã có tin tốt, chả lẽ vấn đề lại nằm ở phương hướng của mình."

Vừa nghĩ miên man vừa nhìn Cao Giáp xếp sắt rèn, gang, chất trợ dung v.v. vào mười mấy cái nồi chịu lửa sau đó để tất cả số nồi chịu lửa đó vào lò than cốc.

Bắt đầu từ năm năm trước nó đã cho thợ tìm cách nấu sắt thành thép, sau hơn hai năm trời với hơn một trăm lò phế phẩm mà vẫn chưa thu được gì. Vấn đề là than củi lẫn than đá đều không cung cấp đủ nhiệt lượng để làm tan chảy sắt.

Sắt không bị nấu chảy thì các thành phần không thể trộn đều với nhau, vì vậy chất thép chỗ cứng chỗ giòn chỗ mềm. Thế thì khác quái gì mấy loại thép nửa mùa của Thiên Trúc, Trung Hoa cùng Đại Hoà từ ngàn năm nay ở khắp châu Á đâu đâu chả có.

Thay đổi cách tiếp cận, nó chỉ đạo công tượng thay đổi chất đốt, từ than đá chuyển qua than bùn, hỗn hợp than đá và than bùn rồi cuối cùng đến than cốc.

Tưởng như nhiệt độ của than cốc đã đủ để giải quyết vấn đề của thép. Nhưng không, bịt chỗ này lại hở chỗ khác, than cốc rất nóng nhưng cũng vì nó quá nóng mà không cách nào thêm carbon vào được, vừa mon men bỏ carbon vào thì cháy bằng sạch, không sao dung nhập nổi, vẫn là hơn một năm với gần sáu chục lò thất bại.

Chán nản, đầu năm ngoái nó bó tay không gượng ép nữa mà để đám công nhân muốn làm gì thì làm. Thế mà chỉ mất hơn một năm họ lại thành công đổ ra thép, là thép thật, thép xịn chứ không phải thứ thép nửa mùa của mấy nước khác.

- Cao Giáp, mi đã giải quyết vấn đề dung hợp than vào thép như thế nào?

Đúng vậy, nó phải gọi carbon là than, chứ gọi bằng tên tiếng anh thì người thời này hiểu sao được. Cao Giáp nghe Lê Ý hỏi đến thì chắp tay kính cẩn trả lời.

- Bẩm cậu lớn, thực ra con không tìm cách dung hợp thêm than vào sắt ạ.

Lê Ý nhìn Cao Giáp thú vị.

- Ồ, vậy phương hướng của mi là gì?

Cao Giáp có vẻ tự hào đáp.

Nội dung chương bạn đang xem bị thiếu. Vui lòng truy cập website https://truyenabc.com để xem nội dung đầy đủ. Cảm ơn bạn đọc!