Đã gần ba tuần trôi qua kể từ ngày những chiếc xe cấp cứu hụ còi náo động cả Pagford còn ngái ngủ. Vào buổi sáng tháng Tư nắng rực rỡ, Shirley Mollison đứng một mình trong phòng ngủ nhìn bóng mình trong tấm gương gắn trên tủ. Bà kiểm tra lại tấm váy áo đang mặc trước khi bắt đầu chuyến đi giờ đã thành nghi thức mỗi ngày đến bệnh viện Trung tâm Tây Nam.
Chiếc thắt lưng siết chặt thêm một nấc so với hai tuần trước, mái tóc bạch kim của bà đã tới lúc phải tỉa lại, và vẻ mặt nhăn nhó trước ánh mặt trời rực sắc như dao rọi vào phòng cũng rất khớp tâm trạng thực của bà hiện giờ.
Cả năm nay, Shirley tới lui giữa các khu bệnh, đẩy xe sách, mang những tấm bìa kẹp hồ sơ và hoa cho bệnh nhân, bà chưa khi nào nghĩ ngày nào đó mình cũng trở thành một trong những người phụ nữ nhàu nhĩ đáng thương đang trực bên giường bệnh kia, bánh xe đời họ thế là đã lăn trật đường rầy, chồng họ nằm đó, yếu đuối, gục ngã trước bệnh tật. Howard không phục hồi nhanh chóng như bảy năm về trước.
Lão vẫn phải nối với đủ loại máy móc bíp bíp te te, vẫn còn yếu ớt chưa nói năng gì được, vẫn trông phát tởm, vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào người khác, đã thế lại hay làu nhàu. Có vài lúc bà phải vờ đi vệ sinh để tránh ánh nhìn trừng trừng đáng sợ của lão.
Khi có Miles đi cùng đến bệnh viện, bà giao hẳn cho con trai việc chuyện trò với Howard, anh kể cho ông bố nghe mọi tin tức xảy ra ở Pagford dù chẳng có lời hồi đáp. Bà thấy mình được bảo bọc và coi trọng hơn nhiều khi có cậu con trai cao lớn bước cạnh bà trên cầu thang lạnh giá. Anh ân cần nói chuyện với cánh y tá, đỡ bà lên xuống xe hơi, và trả lại cho bà cái cảm giác mình là loài sinh vật hiếm cần chăm chút bảo vệ.
Nhưng Miles không thể ngày nào cũng đến, Shirley phát điên vì anh cứ nhờ Samantha thay mình đến bầu bạn với bà mẹ. Hai người hoàn toàn chẳng thể nào thay thế được nhau, dù Samantha là một trong số rất ít người làm cho gương mặt tím bầm đờ đẫn của Howard nở được nụ cười.
Không ai hiểu được nỗi khủng khiếp của bà khi phải trở về căn nhà tĩnh mịch. Khi nghe các bác sĩ thông báo quá trình phục hồi phải mất nhiều tháng, Shirley thầm mong con trai mời bà dọn về căn phòng còn trống trong tòa nhà rộng rãi trên phố Church Row, hay thỉnh thoảng anh sang nhà bố mẹ mà ngủ. Nhưng không, bà bị bỏ ở đó một mình, cô đơn, chỉ trừ ba ngày khốn khổ khi Pat và Melly về thăm.
Mình không khi nào làm chuyện đó
- bà tự động nhắc đi nhắc lại tự trấn an mình trong những đêm lặng câm mất ngủ.
- Mình không bao giờ muốn như thế. Mình chỉ quá buồn thôi. Mình không bao giờ làm chuyện đó.
Bà vùi kỹ ống Epipen của Andrew vào đám đất mềm dưới bệ cho chim ăn trong vườn như vùi cái xác nhỏ bé. Bà không muốn nhớ rằng nó ở đó. Một đêm tối trời nào đó, sớm thôi, trước ngày đổ rác định kỳ, bà sẽ đào nó lên rồi lén nhét vào thùng rác hàng xóm.
Howard không hề nhắc tới ống kim tiêm đó với bà hay bất kỳ ai khác. Lão cũng không hỏi vì sao bà bỏ chạy khi thấy lão nằm đó.
Shirley thấy nhẹ mình hơn khi quay sang công kích kịch liệt những người mà theo bà đã khiến tai họa rơi xuống gia đình bà. Parminder Jawanda hiển nhiên là tội đồ đầu tiên vì dám nhẫn tâm từ chối đến cứu Howard. Rồi đến hai đứa choai choai kia, chỉ vì cái thói vô trách nhiệm đáng ghê tởm của chúng mà xe cứu thương phải ghé lại, trong khi đúng ra có thể đến cứu Howard sớm hơn.
Câu chỉ trích thứ hai có vẻ không thuyết phục lắm, nhưng người ta khoái nghe những lời bôi xấu Stuart Wall và Krystal Weedon, thế nên Shirley vẫn có khối thính giả sẵn lòng ngồi nghe. Chưa hết, giờ người ta biết được hóa ra thằng nhóc nhà Wall đó chính là Hồn Ma Barry Fairbrother. Nó đã thú tội với bố mẹ, rồi bố mẹ nó gọi điện cho từng nạn nhân mà xin lỗi. Danh tính thực của Hồn Ma nhanh chóng lan nhanh khắp thị trấn, lần này lại thêm chuyện nó cùng liên đới chịu trách nhiệm về cái chết của đứa bé mới có ba tuổi. Thế thì xỉ vả nó bao nhiêu cũng là phải thôi, mà cũng thú nữa.
Shirley mạnh miệng chỉ trích hơn bất kỳ ai khác. Từng câu tố cáo độc địa tuôn ra xóa dần đi cảm giác hâm mộ, thậm chí là chút cảm giác tương lân ngày xưa bà ta từng dành cho Hồn Ma; và hơn hết là để bác bỏ bài đăng kinh tởm cuối cùng mà không có ai, hay chưa có ai, thừa nhận là đã đọc. Nhà Wall không gọi cho Shirley xin lỗi, nhưng bà nghĩ ngay rằng thằng nhãi đó có khi đã kể với bố mẹ, hay có khi ai đó sẽ vạch ra vụ này để dìm thằng Fats cho chết hẳn.
- À vâng, anh Howard với tôi có biết vụ này
- Bà dự định đáp thế với vẻ cao ngạo lạnh lùng
- tôi tin rằng chính cú sốc đó đã khiến anh ấy phải lên cơn nhồi máu.
Bà thậm chí còn tập nói to câu đó giữa phòng bếp.
Chuyện thằng Stuart Wall có thực sự biết chuyện giữa chồng bà và Maureen không giờ chưa tới nỗi cấp thiết, vì rõ là với tình trạng hiện giờ, Howard không thể làm bà mất mặt theo kiểu đó được nữa, có khi vĩnh viễn về sau cũng vậy, bà cũng chưa nghe ai xì xào bàn tán gì. Vào những khi không tránh được phải ngồi đó một mình cùng Howard, cái câm lặng thoáng mùi phẫn hận giữa hai bên đó sẽ giúp bà đối mặt với viễn cảnh ông hãy còn lâu mới hồi phục và không có ở nhà với thái độ bình tĩnh hơn nhiều so với tưởng tượng của bà ba tuần trước đó.
Chuông cửa réo lên, Shirley vội vã chạy ra. Maureen tập tễnh bước vào trên đôi giày gót cao đến ngớ ngẩn và bộ áo váy xanh biển lòe loẹt.
- Ồ xin chào chị thân mến, mời vào
- Shirley chào
- Tôi đi lấy cái giỏ.
Dù sao có Maureen đi cùng còn hơn là ngồi một mình. Maureen chẳng hề ngại cái vẻ đờ đẫn của Howard, bà ta vẫn thản nhiên quang quác chuyện này chuyện khác, thế là Shirley sẽ được yên bình ngồi đó nghỉ ngơi và nở nụ cười mèo
-ngoan
-cao
-quý của mình. Dù sao đi nữa, Shirley đang tạm thời nắm phần hùn của Howard trong việc kinh doanh nên bà ta có đủ cách trả thù mối nghi ngờ dai dẳng bằng cách hạ từng nhát dao gạt phăng mọi quyết định của Maureen trong công việc.
- Chị biết vụ gì ngoài kia chưa?
- Maureen hỏi
Nội dung chương bạn đang xem bị thiếu. Vui lòng truy cập website https://truyenabc.com để xem nội dung đầy đủ. Cảm ơn bạn đọc!