Cô nhân viên xã hội Kay Bawden và con gái Gaia dọn từ London về đây mới được bốn tuần, hai mẹ con họ là những cư dân mới toanh của Pagford. Kay không hay biết gì về lai lịch bất hảo của khu nhà Fields, cô chỉ biết đó là nơi nhiều thân chủ của mình sinh sống. Về Barry Fairbrother, cô chỉ biết mỗi một điều rằng vì cái chết của ông mà Gavin của cô nỡ vứt lại cô trong bếp với món trứng bác, và làm tiêu ma luôn niềm hy vọng mà cuộc làm tình với Gavin vừa nhen nhóm trong cô.
Trong giờ nghỉ trưa ngày thứ Ba, Kay đậu xe ở một bãi đỗ quãng giữa Pagford và Yarvil rồi ngồi nguyên trong xe vừa nhai bánh kẹp vừa đọc cả đống giấy tờ ghi chép. Một đồng nghiệp vừa ngưng việc vì căng thẳng, thế nghĩa là Kay phải gánh ngay một phần ba số ca cần tư vấn của người đó. Một giờ kém một phút, cô khởi hành đi Fields.
Cô từng đến khu nhà này nhiều lần, nhưng vẫn chưa quen hẳn với những đường ngang ngõ dọc rối rắm. Cuối cùng cô cũng lần ra đường Foley và từ xa đã nhận ra căn nhà cô nghĩ trước đây thuộc về dòng họ Weedon. Đọc hồ sơ, cô cũng phần nào đoán được sẽ đối mặt những gì; ấn tượng đầu tiên của tòa nhà hoàn toàn trùng khớp với hình dung ấy.
Một đống đồ linh tinh phế thải chất chồng trước mặt tiền toà nhà: Mấy túi đựng đồ căng phồng rác rưởi, quần áo cũ và tã bẩn. Rác vụn rải đầy bãi cỏ rậm rịt chẳng ai chăm sóc, hầu hết dồn đống dưới cánh cửa sổ tầng trệt. Một chiếc lốp cũ mòn vẹt đặt giữa bãi cỏ, rõ ràng gần đây có ai vừa kéo nó ra chỗ khác, vì cạnh đó hãy còn dấu một vòng cỏ chết héo vàng.
Nhấn chuông nhà xong, Kay mới thấy một chiếc bao cao su đã dùng rồi lăn lóc trên cỏ ngay cạnh chân cô như cái kén mỏng dính của con ấu trùng khổng lồ nào đó.
Cảm giác gai gai rờn rợn mà cô chưa bao giờ hoàn toàn rũ bỏ được lại dội lên, dù rằng nó chẳng là gì so với nỗi căng thẳng cô phải đối mặt khi đứng trước những cánh cửa xa lạ trước đây. Dù đã được tập huấn và thường có một đồng nghiệp đi kèm nhưng đôi lúc cô vẫn thấy thực sự sợ hãi. Lũ chó dữ, mấy gã đàn ông vung vẩy dao nhọn, bọn trẻ mang những vết dị dạng kinh khiếp; cô đã đối mặt hết thảy những thứ đó và cả những thứ tồi tệ hơn trong suốt những tháng năm bước qua ngưỡng cửa nhà người lạ.
Không ai ra mở cửa, nhưng cô nghe tiếng một đứa bé ỉ eo sau cánh cửa tầng trệt bên trái đang mở hé. Cô thử gõ cửa, một mẩu sơn bé xíu tróc ra rơi xuống mũi giày cô. Nó làm cô nhớ tới tình trạng căn nhà mới của mình. Giá mà Gavin ngỏ lời giúp sơn sửa nhà thì tốt quá, nhưng anh ta chả bao giờ hé lời nào. Có khi phen này Kay thử tính những điều mà anh ta chưa bao giờ nói hay làm như một kẻ bủn xỉn săm soi giấy nợ, cay cú đòi cho được vốn lẫn lãi xem sao.
Cô lại gõ gõ cửa, không hẳn vì sốt ruột đến thế, mà cốt dứt khỏi những ý nghĩ riêng, lần này có tiếng người vẳng ra, "Cái quái gì... tới ngay đây."
Cánh cửa hé ra, trước mặt cô là một phụ nữ trông vừa trẻ thơ vừa lụ khụ; chị ta đánh cái áo thun xanh lơ nhem nhuốc với quần pyjama đàn ông. Chị ta cũng cao xấp xỉ Kay nhưng cơ thể đã teo tóp đi nhiều, xương gò má và xương ức vêu vao dưới lớp da mỏng trắng nhợt. Mớ tóc rễ tre đỏ rực, nom rõ là tự nhuộm ở nhà, trông như bộ tóc giả úp trên sọ, đồng tử co hẹp như kim, ngực lép kẹp.
- Xin chào, chị Terri phải không ạ? Tôi là Kay Bawden, bên công tác xã hội. Tôi kế nhiệm cô Mattie Knox.
Hai cánh tay gầy guộc xanh xám của người phụ nữ phủ đầy vết châm trắng phếch, mặt trong một bên cẳng tay có vết thương hoác miệng đỏ loét. Một dải sẹo dài phủ khắp cánh tay phải và phần dưới cổ khiến phần da chỗ đó bóng loáng như nhựa. Kay từng biết một con nghiện ở London đã vô ý làm cháy nhà, và khi ý thức được thì đã quá muộn.
- Ờ, thế hở
- Terri lên tiếng sau một quãng lâu im lặng. Khi mở miệng, người phụ nữ này trông già nua hơn nhiều vì hàm răng đã khuyết trống kha khá. Chị ta quay lưng lại phía Kay, tập tễnh đi xuôi xuống hành lang tối om. Kay bước theo. Trong nhà nồng nặc mùi đồ ăn thiu, mùi mồ hôi lẫn với hơi rác lưu cữu. Terri dẫn Kay vào phòng khách bé tí nằm ở bên trái tầng một.
Trong phòng không sách, không tranh, không ảnh, không tivi; chẳng có gì ngoài đôi ghế bành cũ kỹ đầy bụi và dãy kệ gãy chỏng chơ. Trên sàn đầy những mảnh vụn linh tinh. Đống thùng giấy mới toanh xếp dựa vào tường trông thật lạc lõng.
Một cậu nhóc chân trần đứng ngay giữa phòng, mặc áo thun với tã quần lồng phồng. Theo hồ sơ, Kay biết thằng bé đã ba tuổi rưỡi. Nó khóc lè nhè, nhưng vẻ như chẳng vì lý do gì cụ thể, chỉ như tiếng động cơ chạy máy, đơn thuần để báo sự hiện diện của nó ở đó. Thằng bé đang nắm chặt một túi ngũ cốc bé tí.
- Cháu là Robbie phải không?
- Kay làm quen.
Thằng bé ngẩng lên nhìn cô khi nghe tới tên, nhưng vẫn lè nhè khóc tiếp.
Terri gạt phăng hộp bánh quy cũ khỏi chiếc ghế bành nhem nhếch đã mòn xơ, ngồi phịch xuống quan sát Kay sau mi mắt sùm sụp. Kay ngồi xuống chiếc ghế còn lại, trên tay vịn của ghế đặt gạt tàn thuốc đầy ắp. Đầu mẩu thuốc lá rơi cả vào chỗ Kay ngồi, cô có thể cảm thấy chúng cấn cái dưới đùi.
- Chào cháu, Robbie
- Kay vừa nói vừa mở hồ sơ của Terri.
Thằng bé vẫn cứ ỉ eo, tay nắm chặt túi ngũ cốc; trong túi có gì đó kêu lạch xạch.
- Trong túi cháu có thứ gì đấy?
- Kay hỏi han.
Thằng bé không trả lời, chỉ lắc cái túi mạnh thêm. Một con búp bê nhựa nhỏ văng ra theo hình vòng cung rồi rơi xuống phía sau đám thùng giấy. Robbie ngoạc mồm gào lên. Kay nhìn Terri, nhưng chị ta chỉ nhìn chằm chằm cậu con trai, chẳng tỏ vẻ gì. Cuối cùng, Terri làu bàu
- Robbie, nín đi chớ?
- Để xem thử có lấy ra được không nhé?
- Kay đề nghị, cô mừng vì có lý do để đứng dậy phủi các đầu thuốc bám sau đùi
- Để xem nào.
Cô ghé đầu sát tường nhìn vào khe hở dưới đống thùng. Món đồ chơi kẹt gần phía trên. Cô lòn tay vào khe. Đống thùng nặng trịch thật khó đẩy. Kay đã nắm được nó; khi nhìn kỹ, hóa ra đó là hình một người đàn ông béo lùn sơn màu tím sáng, trông hao hao tượng phật.
Nội dung chương bạn đang xem bị thiếu. Vui lòng truy cập website https://truyenabc.com để xem nội dung đầy đủ. Cảm ơn bạn đọc!