Chương 2: (Vô Đề)

Tôi nắm song sắt cửa sổ, bần thần nhìn ra ngoài. Trời đã hửng nắng từ bao giờ, đổ dài xuống mảnh vườn héo quắt những dải sáng lấp lánh sắc vàng. Đám mây lững lờ phía góc trời im lìm, lớp dày nối lớp mỏng nhuộm màu đỏ tươi. Màn sương trắng xóa phủ lấy rặng non xanh cao, phủ lấy tầng tầng ngói gạch ngay nơi nhà người.

Chớp mắt, một ngày mới lại đến.

Sáng sớm, từng đợt gió rét ùa vào phòng, xộc thẳng vào khí quản, như lưỡi dao sắc nhọn cứa trên da thịt. Tôi rùng mình, kéo màn và cài kín cửa sổ, sau đó xuống giường mang giày.

Múc từng gáo nước trong gầu đổ vào chậu gỗ, tôi chia ra hai đợt đổi nước. Đợt đầu là cho lần rửa mặt cùng súc miệng, đợt hai là nhúng ướt khăn lau người. Vì thuận tiện cho việc tắm rửa nên ngày nào tôi cũng chịu khó ra giếng lấy nước về để sẵn trong phòng. Sau khi dùng xong, tôi lại đem chỗ nước dơ ấy ra phía sau vườn xử lí.

Kể ra cũng không dễ dàng gì. Nhất là khi trời đột ngột chuyển lạnh và kéo dài liên tiếp nhiều đêm. Nhớ lúc đó, mặt tôi trắng bệch, chân tay sưng đỏ đến độ run rẩy, sống lưng ê ẩm đau nhói. Nhưng nghĩ đến thân thể mệt mỏi của mình được ngâm trong nước, được khăn ướt chà rửa sạch sẽ thì dù vất vả đến mấy cũng thấy đáng giá.

Giờ này vẫn còn sớm, tôi tranh thủ làm cho xong mấy việc vặt khác, như gấp chăn gối, giặt giũ quần áo, quét tước từ trong đến ngoài một lượt. Ổn thỏa đâu đó hết rồi, tôi mới có thời giờ rảnh rỗi ngồi xuống chăm chút bản thân. Bắt đầu từ đôi môi sưng to cần được bôi thuốc, tiếp đến chải gọn mái tóc khô cứng, cuối cùng là thoa một lớp bột đặc sệt lên quầng thâm mắt và hai bên gò má bị thâm sạm.

Trời lạnh thì da dẻ thô ráp, nứt nẻ. Trời nóng thì da dẻ sưng đỏ, ngứa ngáy. Khổ hết biết.

Tôi khoác thêm áo lông, tay xách gầu nước ra khỏi phòng, theo thói quen, tôi ngó mắt sang phòng bên cạnh. Cửa lớn, cửa nhỏ vẫn đóng chặt. Ba anh nhà kia hẳn còn chưa dậy. Lại chuyển tầm mắt qua gian nhà chính phía đối diện. Cửa giữa mở toang hai bên, thấp thoáng ánh đèn yếu ớt chỉ vừa đủ chiếu sáng một góc phía trong. Một góc rộng bao quát còn lại thì nghiêng hẳn trong bóng tối.

Giống như bao người khách trọ, phạm vi hoạt động của tôi chỉ được quanh quẩn ở nơi gia chủ cho phép. Và nơi duy nhất tôi không được phép bén mảng đến gần, dù chỉ nửa bước chân, chính là gian nhà chính đối diện – nơi ở của chị Xuân và lão chủ quán khó tính.

Đến tận giờ, tôi vẫn ghi nhớ lời cảnh cáo của Xuân: Lão ghét cay ghét đắng mấy kẻ lạ mặt hay tự tiện đi vào đó. Nếu để lão phát hiện, chỉ đuổi thẳng cổ là còn nhẹ.

Điều làm tôi hiếu kì, lão ta sẽ làm gì nặng hơn với những người lỡ đi vào đó? Liệu còn gì đáng sợ hơn việc bị đuổi ra ngoài nhỉ?

Có một lần không nhịn được, tôi đã hỏi Xuân về thắc mắc của mình. Kết quả, thay vì nghiêm túc trả lời, thị chỉ nhìn tôi rồi cười nhạt. Nom thế nào, cũng thấy nụ cười ấy có vẻ là lạ… Nhưng thị đã không muốn nói thì tôi không tiện hỏi thêm. Dẫu thi thoảng, bụng dạ vẫn liên tục cồn cào khó chịu vì tò mò.

Không nghĩ đến thì thôi, vừa nghĩ đến là khắp người lại bồn chồn không yên. Thầy dạy, làm người thường nên biết an phận, hỏi ít nhưng phải hiểu nhiều, đừng hỏi nhiều mà hiểu ít. Từ xưa đến nay, lẽ đời vẫn khuyên răn, dốt nát tìm thầy, bóng bẩy tìm thợ [6]. Thật tình, không phải không muốn nghe. Vấn đề ở chỗ, những lời này hoàn toàn vượt ngoài khả năng lí giải cùng tầm hiểu biết hạn hẹp của tôi.

Nói cho cùng, bản thân hỏi ít mà vẫn chỉ hiểu ít đấy thôi. Có lẽ, giống với câu ngu như lợn, dốt như bò, người ta vẫn thường đem ra chì chiết nhau.

Trong tiếng thở dài não nề, tôi xách gầu múc nước đã rửa sạch đi vào bếp. Không ngoài dự đoán, lão già quái gở kia đang nằm ngủ trên sập. Cái tướng ngủ của lão ta xấu thậm tệ! Miệng há to, nước dãi chảy xuống cổ áo, chân và tay trái buông thõng xuống sập. Tấm chăn nhàu nát bị lão vứt thẳng dưới đất, mặt trên toàn vết ố đen và dầu mỡ dính vào. Chắc hẳn đêm qua, lão ta lại chạy vào đây ăn vụng nên chén đĩa dơ mới chồng chất cao như núi thế kia. Rồi đến mấy thứ khác trong bếp cũng bị ném vứt lung tung.

Nhìn mà hoảng hồn phát khiếp [7].

Tôi cuộn tấm chăn bỏ vào cái sọt trong góc bếp, định khi nào trời nắng sẽ đem ra sân giặt giúp lão. Dòm xuống bãi rác bừa bộn dưới chân, quả thật ngán đến tận cổ. Tôi xắn cao tay áo, bắt đầu dọn dẹp. Làm xong những việc này còn phải nhanh chóng nấu bữa sáng cho kịp giờ.

Không biết từ bao giờ, việc chuẩn bị cơm nước hay chuyện dọn dẹp nhà cửa hàng ngày đều do một tay tôi phụ trách. Lão chủ quán như kẻ dại kẻ điên. Người hầu duy nhất ở quán lại thường xuyên đi vắng. Còn ba anh em kia, tay chân vụng về hệt như nhau, động vào đâu bể đổ đến đó. Tôi mà không gắng sức làm thì có nước chết đói cả đám mất.

Rửa xong chén đĩa, tôi xếp ngay ngắn trên chạn. Vừa quay đầu, đã thấy lão ấy ngồi dựa vào tường, lườm tôi lom lom.

"Cháo của tao đâu? Rượu ngon của tao đâu?"

"Ông phải đi tắm đàng hoàng thì mới có cháo để ăn, có rượu ngon để uống."

"Phiền phức quá! Áo quần còn thơm tho, tắm làm gì!" Lão ngúng nguẩy không chịu, miệng mếu máo chực khóc. "Biết cả rồi. Vậy mà mày lại chê tao. Chê tao thằng già lọm khọm, người bẩn thỉu tanh tưởi, máu nghèo, máu hèn ngấm trong xương tủy."

Nghe lão nói vậy, tôi không khỏi rối rắm nhìn xuống ống quần rách nát, lấm lem bùn của mình, thầm so sánh hoàn cảnh hai bên. Chí ít, ông còn nhà cửa đàng hoàng, dù bề ngoài trông hơi tồi tàn. Bên cạnh có người hầu tận tụy chăm sóc, dù trông người nọ không mấy đáng tin cho lắm. Chí ít, hàng ngày ông vẫn có cơm ăn, có nước uống. Nghĩ thế nào, cũng thấy tốt hơn tôi nhiều.

Lão gối đầu lên cánh tay, lim dim đôi mắt mơ màng. Tôi sợ lão lại ngủ thiếp mất nên cố gắng kéo người đứng dậy. Đồng thời giở hết mánh khóe cùng chiêu trò, dụ lão ta ngoan ngoãn đi tắm. Tôi phải nói mải, nói hoài, nói đến khàn cả giọng mới xem như thành công.

Nhân lúc không có ai ở đây làm phiền, tôi tiếp tục việc nấu nướng còn dang dở: Vo gạo, luộc khoai, lặt rau, nhào bột… Loay hoay cả buổi, bận rộn không nghỉ tay.

Mặt trời đã lên cao, ánh nắng ấm áp chiếu qua cửa sổ, hằn trên vai tôi mấy vệt sáng mờ ảo. Tôi nghe tiếng bước chân dồn dập vọng ra từ phía ngoài chái bếp, sau đó lại nghe thấy tiếng vải vóc cọ xát, tiếng nước chảy ào ào không dứt. Ắt hẳn ba anh nhà kia đã thức dậy, đang tắm rửa trong sân. Ngoài đó có lu nước lớn, vài cái gáo múc treo trên cành cây. Ba người sẽ đứng chen chúc cạnh lu nước đầy. Cứ vậy, anh một gáo, em một gáo giội xuống người.

Đúng lúc này, nồi cháo khoai cũng vừa chín tới. Tôi múc ra bốn cái bát lớn, rắc lên bề mặt một tí tiêu, hành khô và mắm tép. Tiếp đó, mới chuyển qua xem nồi bánh hấp nóng hổi ở kế bên. Những chiếc bánh bột nếp tròn vo, dẻo mềm, được xếp gói cẩn thận trong lớp lá chuối xanh mởn.

Một lát nữa, cả tôi và anh em Sa Vũ đều phải ra ngoài, có khi đến tối mịt mới trở về. Cho nên, bữa trưa có thể thiếu, hoặc không cần ăn. Nhưng bữa sáng, tuyệt đối không thể qua loa.

Khi ba người bước vào, tôi đã dọn sẵn mọi thứ lên mâm đồng. Người họ ướt sũng, đi chân trần, chỉ mặc độc chiếc quần dài bạc màu.

Sa Vũ hí hửng trèo lên sập ngồi, với lấy đôi đũa trong mâm theo thói quen. Tôi nhăn mặt, lập tức bước tới giật lại: "Đã dặn anh bao nhiêu lần rồi, phải đợi tôi bưng cháo lên nhà chính rồi mới được ăn kia mà?"

Nội dung chương bạn đang xem bị thiếu. Vui lòng truy cập website https://truyenabc.com để xem nội dung đầy đủ. Cảm ơn bạn đọc!