An Thịnh Tài giữ Lý Thuần lại uống rượu, bảo người nhà nấu hai món ăn, rồi hai người ngồi vào bàn uống với nhau. Khi bắt đầu uống rượu, lời nói cũng bắt đầu nhiều lên, hai người trò chuyện và dần chuyển sang nói về hèm rượu.
Lý Thuần nhìn thôn trưởng và nói:
"Lão ca, hèm rượu này thực sự là một thứ tốt. Trước đây, khi ta làm ở tửu phường ủ rượu, hèm rượu đều được đưa đến trang trại của chủ nhân. Một phần được dùng làm phân bón trên đất, một phần dùng để nuôi heo.
Nghe nói mỗi mẫu đất ở trang trại đó có thể thu hoạch đến ba thạch, còn heo thì con nào cũng béo tròn.Hiện tại, tửu phường sản xuất rượu ngày càng nhiều, về sau hèm rượu sẽ ngày càng dồi dào. Nếu chỉ vứt đi thì thật lãng phí, không bằng dùng làm phân bón cho đất hoặc nuôi heo."
An Thịnh Tài nghe xong lời này, trong mắt hiện lên sự ngạc nhiên, ngay sau đó là niềm vui sướng vô cùng. Ba thạch! Ruộng nhà ông loại tốt nhất mỗi mẫu mới thu hoạch được hơn hai thạch một chút. Nếu họ cũng đem hèm rượu làm phân bón, chẳng phải sẽ gia tăng thu hoạch sao?
Một mẫu đất có thể tăng thêm hơn một trăm cân lương thực, vậy mười mẫu, trăm mẫu thì sao? Nếu toàn bộ ruộng trong thôn đều tăng sản lượng, thì sẽ ra sao? Chưa kể trong nhà sẽ không phải lo đói, mà mỗi năm còn có thể thu vào thêm vài chục lượng bạc. Nghĩ đến đây, thật khó mà tin nổi.
An Thịnh Tài kìm nén cảm xúc kích động, cầm bình rượu rót đầy chén cho Lý Thuần, cười nói:
"Lý lão đệ, còn mong ngươi nói rõ hơn."
Người ở phủ thành quả nhiên là hiểu biết rộng rãi.
Nếu Lý Thuần không nói, có nghĩ đến mấy cũng không đoán được hèm rượu có thể rải xuống đất làm phân bón. Làng xóm họ trước nay chưa từng có tửu phường, những chuyện như thế này đúng là chưa từng nghe thấy.
An Thịnh Tài tin lời Lý Thuần nói.
Bây giờ Lý Thuần đã chuyển nhà đến định cư ở thôn Đại Hà, hộ khẩu cũng đã chuyển về đây, lại làm thợ ủ rượu ở tửu phường, chắc chắn không dám nói dối lừa gạt ông ta.
Lý Thuần nâng chén rượu kính thôn trưởng một ly, kể hết những điều mình biết. Trước đây, khi còn làm ở tửu phường, anh đã nghe nhiều chuyện như vậy. Vì quen biết với một vị quản sự ở trang trại, ông thường xuyên mang hai cân rượu đến thăm và uống rượu với người đó.
Trong những lần uống rượu và trò chuyện, ông ta đã chia sẻ cách làm những việc này. Vì nhà ông không nuôi heo cũng không trồng trọt, nên lúc đó chỉ nghe qua thôi. Bây giờ chuyển đến định cư ở thôn Đại Hà, ông cũng cần dựa vào tay nghề để kiếm sống.
Nếu vậy, sao không đem những gì mình biết để giúp ích cho mọi người?
An Thịnh Tài nghe Lý Thuần nói rằng chỉ cần trước khi trồng trọt, rải đều hèm rượu lên đất, sau đó cày xới đều xuống đất là được. Sau khi thu hoạch xong, có thể lặp lại như vậy. Dần dần, đất ngoài ruộng sẽ càng ngày càng màu mỡ, và hoa màu trồng trên đất tự nhiên sẽ cho sản lượng cao.
Hèm rượu không thể cho heo ăn trực tiếp; cần phải trộn với cám gạo, rơm rạ đã được băm nhỏ theo tỷ lệ nhất định, sau đó mới dùng làm thức ăn cho gia súc. Nuôi heo bằng thức ăn này, heo lớn nhanh và ít bị bệnh. Tuy nhiên, vì hèm rượu có chứa rượu nên không thể cho heo nái và lợn giống ăn.
An Thịnh Tài lại hỏi thêm Lý Thuần một vài chi tiết nữa, hai người vừa nói chuyện vừa uống rượu. Sau ba tuần rượu, cả hai đều đã say mèm. Lý Thuần được An Viễn và An Khang dìu về nhà.
Trần thị thấy chồng uống nhiều quá, dưới sự giúp đỡ của An Viễn, đỡ ông lên giường. Sau khi cảm ơn An Viễn và An Khang, bà tiễn họ ra ngoài rồi quay lại phòng.
Trần thị nhìn chồng say rượu, lòng lo lắng không yên, ngồi ở mép giường, không kìm được nước mắt, vừa khóc vừa thầm trách:
"Chẳng phải đã nói sau này uống ít rượu thôi sao? Sao lại uống nhiều như vậy chứ? Nếu ông có mệnh hệ gì, thì ta và con biết làm sao đây?"
Chồng bà sau khi bị tửu phường oan uổng và chịu cú sốc mất con trai, có một thời gian chỉ biết say sưa, uống rượu đến mức nôn ra máu. Sau đó, phải uống thuốc suốt hai tháng trời mới khỏe lại. Lúc đó, ông đã hứa với bà rằng sau này vì con cháu mà sẽ không uống nhiều nữa.
Vậy mà không ngờ mới đến đây chưa được bao lâu lại uống say đến mức này.
Lý Kiều Diễm cầm bút mới luyện chữ đi vào nhà, thấy bà nội đang khóc, đôi mắt tràn đầy niềm vui chợt tối sầm lại.
Cô bé lấy khăn lụa từ trong túi ra, bước đến bên bà, nhón chân định lau nước mắt cho bà nội...
An Cát tự mình xuống bếp nấu bữa tối, làm vài món ăn mà vợ thích. Vì không muốn đi vào nhà kho tìm chiếc chén rượu nhỏ, nên cô dùng tạm ly trà thay thế. Sau khi bưng đồ ăn lên, thấy trong phòng hơi tối, cô thắp một cây nến và đặt giá cắm nến ở giữa bàn.
Khóe miệng hơi nhếch lên, cô mỉm cười mời vợ lại ăn cơm.
Bạch Trà nhìn đứa trẻ nhỏ đang ngủ, vỗ nhẹ để bé tiếp tục ngủ say. Nghe An Cát gọi, cô nhẹ nhàng thu tay lại và đi đến bàn ăn.
Trong mùa đông lạnh giá, hai người thường để một cái bàn nhỏ trong phòng và ăn cơm ở đó. Nếu ăn cơm trong nhà chính, phải để chậu than sưởi ấm, nhưng cũng không đủ ấm.
Trong nhà chỉ có hai người họ với một đứa trẻ mấy tháng tuổi, nên theo lời An Cát thì không cần quá chú trọng, miễn sao tiện lợi và thoải mái là được.
Nội dung chương bạn đang xem bị thiếu. Vui lòng truy cập website https://truyenabc.com để xem nội dung đầy đủ. Cảm ơn bạn đọc!