Chương 26: Nhật ký của Quang Bàn​

Ngày 6 tháng 10 năm 1795,

Hôm nay quả là một ngày mệt mỏi. Suốt cả buổi sáng phải vắt kiệt sức chống chọi lại cơn thịnh nộ của biển cả. Đứng giữa biển trời bao la, con người ta quá nhỏ bé. Quả thật "đi một ngày đàng học một sàng khôn". Ta trước đây cứ tự cho mình là tài giỏi, là đứng trên đỉnh thiên hạ.

Giờ đây xem ra, ta còn không bằng cả những tay phụ việc hèn mọn nhất trên thuyền. Giữa cơn cuồng phong dữ dội, họ lăng xăng chạy tới chạy lui, lo liệu mọi bề. Trong khi đó, ta làm được gì ngoài việc co ro bám trụ chiếc cột buồm vững chắc, miệng khô khốc, nôn ra cả mật xanh mật vàng.

Nhìn những tấm lưng trần ướt đẫm mồ hôi, ta chạnh lòng nhớ về bá tính ở quê nhà, dân mình còn nghèo và khổ lắm.

Sau khi ổn định lại tình hình, Mã Kim Đa sai người kiểm kê thiệt hại. Chúng ta tổn thất hai thương thuyền, mất tích bốn mươi ba người, đa số là người Minh Hương, cùng với bảy mươi bảy thùng hàng.

Ài, thiệt hại khá nặng nề, mà đây mới chỉ là cơn bão đầu tiên thôi đấy.

Một việc khác nghiêm trọng hơn lại đến. Nước ngọt. Ở nơi bốn bề là biển mặn này, nước ngọt dù chỉ là một giọt cũng quý giá vô cùng. Những con sóng cao mấy chục thước sáng nay làm nước biển tràn vào mấy cái thùng tô nô đựng nước.

Lượng nước ngọt còn lại trên cả năm chiếc thuyền chỉ đủ dùng cho khoảng chưa tới hai ngày.

Một việc nữa, thuốc súng trên thuyền cũng bị ẩm rồi. Việc này đặc biệt nghiêm trọng. Nếu chẳng may trên đường gặp cướp biển thì lấy gì mà chống lại?

Mã Kim Đa quyết định một mặt sai lính đem phơi khô số thuốc súng. Mặt khác lại hạ lệnh cập bờ ở mũi Hảo Vọng.

"Nhân tiện mua nước ngọt cùng trao đổi hàng hoá", ông ta nói.

"Nhân tiện, để cho Ngài - ý ông ấy nói ta - thưởng thức cái gì gọi là thiên đường của những người đi biển"............

7 giờ rưỡi sáng ngày 7 tháng 10 năm 1795,

Dù khoảng cách đến mũi Hảo Vọng rất gần nhưng vì phải cố tránh những con sóng ngầm nên phải tới sáng nay chúng ta mới cập bờ được.

Từ đằng xa, bến cảng hiện ra trong tầm mắt với rất nhiều thuyền, đủ loại, cả thuyền buôn lẫn thuyền chiến. "Ở khu vực này, nhất là ở thị trấn Cape Town, người ta nghiêm cấm tranh chấp đánh nhau", Mã Kim Đa nói,

"đương nhiên sẽ không sao nếu đó chỉ là những xích mích nhỏ. Ngài thấy đó, trên cảng là tàu thuyền của đủ các quốc gia. Đây có lẽ là nơi hoà bình nhất thế giới".

Đoàn thuyền nhanh chóng cập vào bãi thuộc về những người Anh Cát Lợi. Tiếp đón chúng ta là một nhóm người bản địa. Thật kỳ lạ, người ở đây có màu da đen trùng trục làm nổi bật hàm răng trắng bóng.

Nhưng điều đầu tiên làm cả đoàn người Việt và những người Minh Hương phải há hốc mồm là dân bản xứ, cả đàn ông lẫn đàn bà, cả thanh niên đến thiếu nữ đều... trần trùng trục.

Liếc nhìn những cô thiếu nữ với bộ ngực sữa nẩy tưng tưng mà nhiều "quý ông" chảy cả nước bọt. Nhiều người ngoài mặt thì làm bộ ngó lơ, luôn miệng nói "thật là suy đồi, thật vô liêm sĩ

"vậy mà chốc chốc lại liếc nhìn. Đến cả ta cũng phải buông ra câu nói cửa miệng của chú Tư"phản khoa học, thật là phản khoa học quá mà

". Nhưng nói thật, ha... ha... ta... rất thích. Những thương buôn của chúng ta lại khác. Họ nhanh chóng cùng những thương nhân Anh Cát Lợi tháo dỡ hàng hoá, những mong buôn bán được chút gì đó. Sau khi bàn bạc, chúng ta quyết định tách ra, mỗi người có thể tự do đi dạo, sau ba giờ chiều sẽ hội họp ở quán rượu"Flying Dutchman"

- quán rượu mang tên một con tàu ma nổi tiếng Những người Hà Lan bay.

Truyền thuyết về con tàu ma này ta tạm thời không nhắc đến. Giờ thì... đi dạo thôi.

Đi cùng ta là Thái tử Augustus cùng cha con Phan Huy Ích.

- Nổi tiếng nhất ở đây có lẽ là chợ nô lệ.

- Augustus giới thiệu.

- Chợ nô lệ? Phải chăng là bán những gia nhân như ở xứ ta nhưng lại được công khai?

- Phan Huy Ích hỏi.

- Đúng vậy.

- Augustus nói

Nội dung chương bạn đang xem bị thiếu. Vui lòng truy cập website https://truyenabc.com để xem nội dung đầy đủ. Cảm ơn bạn đọc!