Lại nói về Nguyễn Ánh.
Thất bại nặng nề sau trận chiến đầm Thị Nại đã tước đi một phần ba sức mạnh quân sự. Giờ đây Ánh quả là đã bị thương thật sự. Ấy thế mà đừng vội xem thường.
Còn nhớ ngày nào, dù không binh không tốt, Ánh vẫn có thể đứng dậy, xây dựng lại cho mình một vương triều hùng mạnh, mưu đồ thống nhất giang sơn. Với một con người tài cao chí lớn, lại từng bao năm nếm mật nằm gai thì những vết thương này có đáng là gì.
Trong cuộc chiến long hổ tranh hùng giữa nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn, Ánh đã bao lần bị dè bĩu, chê bai với câu thành ngữ "cõng rắn cắn gà nhà". Ấy thế mà đừng vội đánh giá ông là hạng người tiểu nhân, bán nước. Ngược lại, ông là một người có lòng yêu dân như con, còn được lòng bá quan văn võ.
Xứ nam bộ, người dân chân chất, hiền hòa. Họ không cần quá giàu có, cũng không có nhiều lý tưởng quá cao xa. Với họ, chỉ cần an cư lạc nghiệp, đời sống yên bình là đủ. Mỉa mai thay, chính những người đi trước, ông cha ông lại không nhìn thấy điều đó.
Trong cái thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, ai có nắm đấm lớn hơn, người đó sẽ thắng. Bởi vậy, bao đời chúa Nguyễn chỉ biết tập trung cho quân đội, chạy đua vũ trang với chúa Trịnh ở phía bắc. Đời sống người dân cơ cực biết chừng nào. Nạn đói diễn ra thường xuyên, bá tính phải tha hương cầu thực.
Chỉ có một người đánh giá được đúng tiềm lực của cái xứ này – Nguyễn Ánh. Từ ngày trở về nước mấy năm trước, Ánh đã làm nên điều thần kỳ mà cha ông ông chưa từng nghĩ đến và làm được.
Năm năm trước, Nguyễn Ánh cho lập kho Bốn Trấn làm kho chung cho các trấn Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, và Định Tường để thu thuế và làm ngân quỹ cấp lương bổng cho quan.
Đến năm sau, ông đưa ra chính sách lấy sản xuất nông nghiệp làm trọng trên cơ sở số lớn đất đai phì nhiêu nhưng lại bị bỏ hoang nhiều vì cộng đồng di dân chưa định hình và chiến tranh liên miên ở vùng Gia Định.
Nguyễn Ánh cho đặt nhóm quan điền toán gốm mười hai người, nổi bật là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tòng Châu, Hoàng Minh Khánh, để đi bốn dinh miền Nam là Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, Trấn Định để đốc thúc nhân dân làm việc nông nghiệp, phàm ai lười biếng sẽ bị bắt sung quân.
Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn đề ra chính sách là nếu người hoặc nhóm người làm ruộng đất tốt thu trên một trăm thùng lúa, còn ruộng đất xấu thu trên bảy mươi thùng lúa thì sẽ được thưởng thêm.
Những người dân lậu cũng có thể làm ruộng dưới sự quản lý của quan điền toán và được xem như là một người lính; nếu như họ thiếu vốn thì cũng có thể được cho vay trả sau.
Đến tháng mười năm tiếp theo, binh lính cũng được huy động vào việc sản xuất nông nghiệp khi phép Ngụ binh ư nông được thi hành. Binh lính được khuyến khích cầy cấy để tận dụng các mảnh đất bị bỏ hoang vì chiến tranh.
Nhóm Trung Quân và các nhóm thủy quân được cử đến khai thác vùng Thảo Mộc Câu lập ra trại Đồn Điền dưới sự chỉ huy của chánh cơ Nguyễn Bình. Trại này được trợ cấp dụng cụ và giống cây, phần thu hoạch được sẽ sung vào kho công. Các quan địa phương khác cũng phải lập đội đồn điền và nộp thuế.
Số lúa gạo thu được từ các đồn điền này được giữ trong một kho gọi là kho Tích Trữ.
Để có thêm lúa gạo phục vụ chiến tranh, Nguyễn Ánh cho đặt thêm thuế phụ ngoài thuế ruộng một năm hai kỳ thu là thuế thị túc và thuế thị nạp.
Đến trước đây hai năm, Nguyễn Ánh cũng bắt đầu cho đưa các nhóm thợ thủ công ông đưa từ miền Trung Đại Việt vào. Ông cho quy hoạch lại nghề thủ công ở vùng Gia Định: ông cho quy hoạch ra sáu mươi bốn ty thủ công gồm đủ các loại ngành nghề được phân bố khắp các dinh.
Khu vực Sài Gòn có sở Nhà Đồ gồm hai mươi hai ty, trong đó có các ty thợ mộc, thợ sơn, thợ cưa. Bên cạnh đó còn có các đội chuyên trách phục vụ cho các ty và tổ chức gọi là "nậu" gồm dân thợ cùng nghề ở các vùng dân cư hẻo lánh, chưa nên thôn xóm.
Việc mua bán với nước ngoài cũng được khuyến khích và kiểm soát chặt chẽ, nhất là đối với các mặt hàng có liên quan tới quân sự như kẽm, sắt, đồ đồng, diêm, lưu huỳnh, sắt, gang, chì đen để có thêm nguồn tài chính và binh khí.
Từ trước khi Nguyễn Phúc Cảnh về, Nguyễn Ánh đã đưa ra chính sách mời gọi thuyền nhà Thanh vào buôn bán. Ngoài ra, Ánh còn thường xuyên cho thuộc cấp đi qua các khu vực do thực dân phương Tây kiểm soát gần Đại Việt để mua binh khí, trong đó quân Nguyễn thường xuyên lui tới nhất là các khu vực lãnh thổ phía Tây như Batavia, Malacca, Transquebar.
Để kiểm soát Gia Định, người Khmer vốn là dân bản địa, Ánh phải cho hai tướng người Khmer của mình về coi các vùng có số dân Khmer đông để thiết lập các khu vực tự trị, đề ra các chính sách và luật lệ hạn chế xung khắc với người Việt, việc tương tự cũng diễn ra ở khu vực Hà Tiên.
Đối với cộng đồng người Hoa, ông đưa ra chính sách đối xử với họ cũng giống như người Việt: cũng phải nộp thuế, đi lính; và lập chức Tổng phủ người Hoa cai quản hai vùng phức tạp Ba Thắc và Trà Vinh.
Bên cạnh đó, ông cũng cho kiểm tra dân số để tiện việc bắt lính và thu thuế, đưa ra các chính sách chống trộm cướp và gìn giữ an ninh; các hình thức tệ nạn như phù thủy, đổ bác, đồng bóng, hát xướng đều bị cấm.
Đồng thời ông cũng đưa ra chính sách hạn chế nấu rượu để tiết kiệm gạo và cho thuộc quan tổ chức các hoạt động mua vui cho dân chúng.
Kể ra, quả thật, so với Ánh tình hình của Toản ở phía Bắc bình yên hơn nhiều. Thế mà ông vẫn lèo lái được con thuyền vương triều của mình vượt qua bao khó khăn. Nói như vậy, trong mắt của những người chân chất xứ nam này, Ánh đúng là một vị minh quân.
Lại quay về tình hình hiện tại, vết thương chiến bại đã dần khép lại. Trong nửa năm này, Ánh không vội chiêu mộ thêm binh sĩ. Ổn định lại dân tâm là điều tiên quyết.
Chính điện thành Phụng, nội thành Gia Định.
"Hoàng thượng lâm triều, các quan mau vào tấn kiến
". Ngồi trên bệ rồng, Ánh nhìn xuống chúng thần. Hôm nay, ông mới nhận được một tin hết sức quan trọng."Các quan có việc thượng tấu", tiếng truyền chỉ của tên Thái giám truyền chỉ lại vang lên.
- Thần, Trịnh Hoài Đức có việc cần tấu.
Nội dung chương bạn đang xem bị thiếu. Vui lòng truy cập website https://truyenabc.com để xem nội dung đầy đủ. Cảm ơn bạn đọc!